Thứ Bảy, 25 tháng 12, 2010
Thứ Tư, 22 tháng 12, 2010
KHÓA3 HÀ NỘI kỷ niêm 22 thang12
Bài hát theo yêu cầu
Các House Of The Rising Sun Display: Declan Galbraith
(Theo required Chí Nhân K3)
Có một ngôi nhà ở New Orleans
Nó được gọi là Rising Sun
Đó là sự hư hại nhiều một cậu bé nghèo
Và Chúa biết về một
Nếu ông đã nghe những gì bố nói
Anh sẽ là một vị vua ngày nay
Nhưng anh biết tốt nhất, những gì ông nên làm
và ông đã được trên đường
Ông nhanh chóng trở thành một "người đàn ông Travellin
Anh ấy đi từ thị xã đến thị trấn
Con đường anh đã là tốt với anh ta
cho đến khi uống rượu của mình xuống
Sau đó, anh ta tỉnh dậy * tại ba mươi lăm *
Realised những gì ông đã làm
Remembered là cha những gì nói
'bout House of the Rising Sun
có một ngôi nhà ở New Orleans
Nó được gọi là Rising Sun
* Và * nó được sự hư hại nhiều một cậu bé nghèo
Và Chúa biết về một
Và Chúa Tôi biết một
Có tôi
tôi thực sự biết
tôi biết một
Có tôi
tôi biết một, phải
Thứ Ba, 21 tháng 12, 2010
Chủ Nhật, 19 tháng 12, 2010
Ngày QDNDVN 2010.
Thứ Năm, 9 tháng 12, 2010
Bài hát theo yêu cầu
Use cu Latin mirror
To mong moi wait to wait
To width Chương NÂNG Ngưu
and number of the tan vo
book cu Latin mirror
To tháng day hoa mộng
To Hen Hồ ask Đường
And Khắc Khoái wait for various
book for em for em
roi nhin em nhin em
and Nam Tây Nam Tây
Chợ Hòn em Ngát NGAY
Chi có thể anh nhin em
la tim em Disassemble shifted
Chi có thể anh Nam Tây
La Hồn em Đàm nói
Em do not like as a Vợ
could not like that anh Chong
is only you want to ask you want to remember
Search for various within mơ
Dung that is the Vợ Chong
roi nhin various chán Ngân
book cu Latin mirror
To their ta mệnh Mông.
Thứ Ba, 7 tháng 12, 2010
Tâm sự bè bạn
Sự “để đời”
Thứ Năm, 2 tháng 12, 2010
Bài hát theo yêu cầu
Sáng tác: Nguyên Nhung
(Theo yêu cầu của Tạ Việt Chiến K3 và Lê tiến Dũng K3 )
Dừng chân bên suối võng đưa
Nhìn trời cao trong xanh lồng lộng
Bông hoa rừng thơm mát, phải đất nước cho ta
Mẹ yêu con gửi tình trong hoa bát ngát
Võng theo ra chiến trường
Võng theo ta giải phóng
Tổ Quốc ơi! Muôn năm vững bền hai đầu
Cho quê ta hết giặc, Bao em thơ yên ngủ
Về anh ru dưới bóng dừa
Chiều Trường Sơn dào dạt võng đưa
Rừng ru ta thân yêu như quê nhà
Như con thuyền trên bến đợi rẽ sóng trùng khơi
Về dưới xuôi, đồn thù bốc cháy nơi nơi
Võng theo ra chiến trường
Võng theo ta giải phóng
Tổ Quốc ơi! Muôn năm vững bền hai đầu
Lời ru xưa vỗ về Lời ru nay thúc giục
Rộn lòng ta ra chiến trường
Thứ Ba, 30 tháng 11, 2010
Những kỷ niệm không quên
Trường mình hiện hữu có 5 năm, thời gian như vậy quả là không nhiều so với tuổi thọ của hàng trăm hàng nghìn mái trường được sinh ra trên đất nước này; Ấy mà 50 năm sau và có thể còn lâu hơn nữa, anh em ta vẫn nhớ nhung “nó”, nhắc tới “nó” với những tình cảm yêu thương trìu mến như đó chính là nơi chôn nhau cắt rốn của mình vậy. Cuộn sống ở đó đã cho ta trải, nếm đủ các dư vị của cái tuổi đầu đời: Hùng tráng có, bi tráng có và (tạm gọi) hài tráng cũng có.
Vậy thử nhớ lại xem nhé. Tuy có thể sai lệch đôi chút nhưng tôi xin cam đoan những gì mình nói, những gì mình nghĩ là đúng với bản chất của vấn đề, còn hình thức diễn đạt thì có chút khác biệt, chắc cũng chả có gì nghiêm trọng lắm phải không các bạn nhỉ?
Anh em Trỗi nhà mình (ăn chung, ở chung, vui chung, khổ chung, thì là “nhà mình” chứ còn gì nữa) ngoài ba cái vụ bị ghẻ lở, hắc lào nó hành, rồi những đợt dịch viêm màng não tấn công, đến nỗi ai cũng phải uống hàng vốc Sunfamir trắng xóa, hàng tô quán-chúng đen sì, thì còn một cái chứng nữa nó hành mình cũng không kém. Đó là căn bệnh “đói liên miên”, mà may ra sau này được sang nước bạn tá túc thì tự nhiên anh em mình hết “bệnh”. Ngoại trừ những bữa “Vì miền Nam ruột thịt” do trường phát động, chỉ có cơm với muối vừng, nhưng thực ra không hề hấn gì vì cả tuần mới có một buổi ăn nhạt chứ mấy, hôm sau ăn bù là được.
Tôi còn nhớ mang máng thực đơn theo lịch của bếp ăn đại đội là (những món chủ chốt):
Thứ hai: Thịt heo luộc chấm xì dầu.
Thứ ba: Canh hành tía củ to nấu với thịt hoặc cá.
Thứ tư: Thịt heo kho + canh cải (cải gì thì không nhớ lắm).
Thứ năm: Thịt gà luộc + đậu phụ chấm mắm tôm
v.v và v.v …nghĩa là thay đổi món ăn hàng ngày để khỏi chán. Đúng là hậu phương lớn có khác.
Ăn sáng thì hôm nay ăn cơm rang, sáng mai xôi và chè nhé, ngày kia bánh bao và cháo trắng nè, v.v …Quả là no xôi chán chè thực không có sai.
Ăn thì bằng tô bằng thìa. Một cái tô xúc đầy bằng 3 chén cơm. Nhét cho 2 tô thì ễnh bụng. Ăn mâm này xong lại còn được phép la cà tới mâm khác để vừa trò chuyện vừa ăn dùm bạn, thật là khoái hết chỗ khoái, no ơi là no, chẳng bù cho cái hồi còn … tại vị trong nước.
Này nhé, chúng tôi hồi đó hầu như đói kinh niên, đói mãn tính vì đang tuổi ăn tuổi lớn. Nhìn thứ gì mà bỏ được vào miệng mà không chết là bỏ liền. Từ trái bưởi (có khi mua, có khi xin, và có khi ăn trộm) đến mít, khế và cả mấy quả ổi xanh lè, cũng xơi tuốt bất chấp hậu quả ra sao, có táo bón hay táo tàu gì cũng mặc kệ, miễn là no cái đã.
Có một kỷ niệm nhỏ, bây giờ mới dám thú nhận, dám vạch áo cho người xem lưng. Phiên gác đêm hồi ấy của đại đội thường là 2 người 1 ca. Tôi và Lê Cảnh Nghĩa (xin lỗi Nghĩa nhé, không ai truy cứu nữa đâu, lâu quá rồi, mà để lâu thì … cứt trâu cũng hóa bùn …) được phân công một ca trực, vũ khí được trang bị thời gian đầu còn thô sơ lắm, chỉ có dao quắm và …gậy, còn đèn pin thì tự túc. Ước gì có được cái đèn pin của Dũng “gỗ” nhỉ, hàng độc đấy, là đèn 3 pin, bấm lên sáng quắc cả một vùng; có nó thì chả sợ thằng nào, con nào nhé. Hai đứa đi một vòng đại đội thì về giải lao, đứng ngay bên chái bếp. Cửa bếp khóa, tò mò và đói, tôi leo vào theo lối cửa sổ. Dưới ánh sáng lờ mờ, một cái xoong nhôm đậy nắp được để hơi riêng ra một chỗ, tôi kiểm tra ngay. Trúng mánh rồi, liền gọi Nghĩa vào và 2 thằng (ăn trộm) tay thì bốc, miệng thì nhóp nha nhóp nhép. Đã là ăn vụng mà lại là thịt gà thì còn gì bằng. Đúng là miếng ngon nhớ đời. Nhưng cũng không dám ăn nhiều, vì biết sợ, nhỡ ra mấy ông đại đội phát hiện được thủ phạm thì ngượng lắm. Đói là thế nhưng cũng có lúc ễng bụng. Đó là vào những ngày chủ nhật, một số bạn có gia đình lên thăm, tất nhiên bọn nó sẽ không ăn cơm đơn vị. Vậy thì ba, bốn người sẽ được ăn mâm cơm dành cho 6 người. Lâu lâu cũng ấm chân răng là thế. Thật tội cho bạn Trịnh Thành Công, vì lý do nào đó Công ăn rất chậm, ngồi giữa 5 cái tàu há mồm lại không khách sáo gì thì bạn đói là cái chắc. Thế là có sáng kiến chia cho Công riêng một phần, nhưng cũng thỉnh thoảng thôi, vì sợ bạn tự ái. Vì thiếu ăn (đang còn chiến tranh mà) nên vóc dáng bọn mình cũng “oằn” lắm, đứa nào cũng độ 45, 50 ký cả quần và áo là cùng, nên khi ra suối tắm, thằng này chê thằng kia cũng là thường. Nhưng cũng có ngoại lệ, có anh bạn cũng to con lắm, phải trên 60 ký, vòng ngực hơn 90. Đó là Dương Thanh. Dĩ nhiên các thứ khác cũng phải đồng bộ chứ. Nếu nói theo kiểu bây giờ thì cũng thuộc hàng top ten đấy, chả thế mà bạn lại có ngoại hiệu là Thanh u – ko tu. Mà nghe tin chầu rìa thì giờ này hắn chỉ còn ở top 100 thôi. Không biết có đúng không? Hay là vì “ con gà tức nhau tiếng gáy” nên tụi nó phịa ra!? Hay như Phan Chí Đỉnh cao gần 1m8, để đỡ thấy cao nên anh em sửa tên lại là Phan Chí Chóp …
Đã là lính thì phải biết hành quân. Đã là bộ đội thì đâu cũng là nhà mình. Bầm, bu, thầy nào cũng là bầm, bu, thầy của mình và quan trọng hơn là đi thì dân phải nhớ, ở thì dân thương. Bọn lính Trỗi ăn chưa no, lo chưa tới, không biết có làm nổi được cái việc lớn lao ấy không?
Thời gian đầu về ở quân khu Tả Ngạn – Chí Linh – Hải Dương, chúng ta chưa được nhập ngũ, chưa thành anh bộ đội chính hiệu, mặc dù quần áo trang bị là của lính nhưng chưa được gắn sao vàng trên mũ, chưa có quân hàm, quân hiệu, thì cái việc “vì nhân dân” của mình chắc cũng còn non kém lắm.
Tôi và Tài Chí được phân công về ở một nhà dân. May là nhà không có con gái lớn chưa chồng. Bọn tôi hồi ấy nhát gái lắm. Nhát thì không nói chuyện, tán tỉnh được, mà không tán được thì mang tiếng không dân vận được, thế mới khổ chứ lỵ, nên nói may là vì thế.
Và chuyện này lại cũng có ngoại lệ đấy. Không phải anh em Trỗi nào cũng nhát đâu nhé. Ở những lớp học có bạn nữ thì môi trường này giúp mấy anh đực rựa nhà mình mạnh dạn và phóng túng hơn. Ví dụ, sắp đến giờ học môn Hóa, cả lớp ngồi ngay ngắn nhìn lên bảng tuần hoàn Men-đê-lê-ép để chờ thầy. Tới khi thầy vô, sau màn chào hỏi, trực nhật lớp cất bảng tuần hoàn để vào tiết học, không ngờ khi tháo bảng tuần hoàn xuống thì dòng chữ hiện ra, đó là 2 câu:
“ Lớp ta chàng Thắng họ Nê,
Sun fua đã lắm, máu D cũng nhiều”
Bọn học trò nam thì cười lăn, bọn con gái thì mím miệng! Còn thầy thì ngậm ngùi lau vội bảng và nhân vật kia thì đỏ mặt tía tai. Không biết tác giả là ai (nghe nói là Đ.X.H) nhưng chắc bạn cũng học khá môn Hóa (Sun fua hydro mùi gì? Đạp vỡ quả trứng ung ra thì sẽ biết). Vả lại các thầy cô thường dạy học trò là hãy vận dụng kiến thức ta đã học vào thực tế cuộc sống!!
Hồi ấy còn chiến tranh, nên việc ăn uống của bộ đội vẫn kham khổ. Hàng ngày bọn tôi tập quân sự (để chuẩn bị nhập ngũ): Tập lăn, lê, bò, toài đủ thứ, tập hành quân, tập mang vác nặng nên cũng chóng đói lắm. Khẩu phần ăn lúc này cũng chỉ là cơm độn, hạt bo bo; nếu cơm độn mì thì mì được hấp hay luộc thành từng cục, từng cục như bánh bao và cứng hơn nhiều, nhưng cũng không đủ mà ăn. Nhìn thấy trái mít, trái nhãn trên cây của nhà người ta mà ra sức tưởng tượng, mà thèm. Phải chờ cho mít hay nhãn chín đã, chín là mua liền, anh em góp tiền lại mà mua; có khi mua cả cây và để dành ăn dần (để dành trên cây là lý tưởng nhất). Nhãn lồng Hưng Yên các bạn biết rồi đấy, ngon nổi tiếng, mà Hải Dương với Hưng Yên về thổ dưỡng thì xem như nhau, nên nhãn lồng Hải Dương cũng ngon nức nở.
Bọn mình cũng bắt đầu tập tọe hút thuốc lá (chính thức học đòi thì từ trường mới ở Quế Lâm kia; việc mua và hút phải rất kín đáo, chỉ hút ở nhà vệ sinh hay trong .. màn thôi) để cho nó ra người lớn một tý, râu ria cũng bắt đầu lún phún, chỗ này, chỗ kia …
Cũng nhờ điếu thuốc mà chúng tôi và anh chủ nhà càng thân thiết cởi mở. Thi thoảng cũng được vài điếu thuốc thơm (Điện Biên, Thăng Long, Thủ Đô …) tôi không dám hút mà để dành về nhà mời anh. Anh thì thuốc lào là chủ lực nên khi được mời thuốc lá thơm (nói với tụi nó đem từ Hà Nội lên) là anh khoái và vui lắm. Đi đâu thì thôi, chứ về nhà là 2, 3 anh em lại quây quần chuyện nọ xọ chuyện kia, vui đáo để, tình cảm quân dân ngày càng gắn kết.
Biết bộ đội ăn uống, kham khổ, anh mời 2 đứa tôi ăn cơm, bọn tôi nói thật là mới ăn xong. Anh nói: “nhằm nhò gì, 2 chú cứ ăn thêm cơm nhà đi cho nó vui, ở nhà có cá, có tôm tôi đánh bắt được luôn ấy mà, chứ ăn uống như mấy chú thì cực quá, lấy sức đâu mà tập!”. Thú thực là ăn rồi mà bọn tôi còn thấy đói lắm, ăn nữa thì tốt quá, lại có cá, có tôm, toàn những đồ ăn ngon, ai mà chẳng thích nhưng ngại phiền anh chị và cũng khách sáo nữa, bọn tôi từ chối khéo: “Bọn em no lắm rồi, cảm ơn anh chị nhiều”. Anh chị nhường cho 2 đứa chiếc phản giữa nhà. Hai vợ chồng chỉ mới có 1 đứa con nhỏ, nó ngoan ít quấy nên bọn tôi cũng không thấy phiền. Chị thì đan lưới, sửa lưới ở nhà, làm cả đêm hôm. Một, hai giờ sáng, tiếng điếu cày rít lên lanh lảnh, tưởng anh hút thuốc, ai dè hóa ra là chị. Đây có lẽ là lần đầu tiên và duy nhất tôi được chứng kiến một phụ nữ hút thuốc lào. Chị cũng điệu nghệ lắm, từ việc thông điếu, thử điếu, đến việc nhả từng cụm khói trắng phau lên trời. Có lẽ nhờ những điếu thuốc đó mà chị thức được khuya để làm thêm việc nhà, giúp được cho chồng, cho con. Hình ảnh người đàn bà ngồi vá lưới bên ánh đèn dầu hiu hắt với chiếc điếu cày làm bạn giữa đêm khuya khoắt là hình tượng người phụ nữ Việt Nam, hay lam hay làm, chịu thương chịu khó. Mẹ ta, chị ta, em ta cũng có hình bóng ở trong đó.
Một hôm, chúng tôi nói với anh rằng, bọn em sắp lên đường nhận nhiệm vụ mới, 2, 3 hôm nữa thì đi. Chuyện đi, ở của mấy anh bộ đội là thường. Khắp đất nước này, đâu cũng là quê hương mình, người dân ở vùng nào chúng tôi đến cũng là anh, em, cô, bác mình cả, chả thế mà “Xa bầm, con lại có bao nhiêu bầm”.
Ngày mai chúng tôi lên đường. Trưa hôm đó, không khí trong gia đình khang khác, anh chị ít nói hơn. Anh thì cười cười đấy như mọi khi nhưng hơi đượm buồn. Chị thì nựng con: “Mấy chú đi rồi thì chắc cái nhà này buồn lắm, phải không cún con của mẹ” Anh nói với tôi và Chí: “Trưa nay mời 2 chú ăn cơm với gia đình, mà 2 chú phải ăn, nhất quyết thế, chứ không được khách sáo đâu! Anh em mình sắp chia tay nhau rồi”. Không ngờ anh đánh giá cao buổi chia tay này quá. Anh dặn vợ thịt con gà để làm cơm. Vào thời buổi chiến tranh, gạo châu củi quế, việc thịt một con gà không phải là chuyện nhỏ, phải có việc lớn, việc trọng đại trong gia đình thì người ta mới mổ gà. Quả là 2 ông bà coi trọng mấy anh bộ đội này quá, tình nghĩa quá, và họ không tiếc gì với mình. Quả là chúng tôi đã làm tốt câu dân vận: “đi dân nhớ, ở dân thương”. Nếu không nhớ, không thương thì làm sao người ta giết gà đãi mình. Tôi có hỏi Chí: “Mình có làm được gì nhiều cho người ta mà ông bà quí mình thế nhỉ? Hắn nói: “Chắc là anh em mình lăn xả vào chống lụt, cứu đê (đê Phả Lại) như cứu nhà của mình, nên họ phục đấy thôi”. À, có thể thế lắm chứ. Quân hết lòng vì dân thì dân đâu có tiếc điều gì.
Bữa cơm hôm đó thật là ấm áp. Gà tươi, thịt ngon, rượu ngọt. Miếng ngon nhớ lâu, nhưng theo tôi thì chính tấm lòng của chủ nhà, chính cái chất phát mặn mà vùng sông nước của anh chị mới là những đặc sản mà tôi và Chí chắc không bao giờ quên được. Đó là 2 lần được ăn thịt gà đáng nhớ nhất trong đời bộ đội của tôi. Một lần là ăn trộm, một lần là được mời. Chuyện ăn và chuyện mặc bây giờ với mọi người không thành vấn đề lớn nữa. Ăn gì cũng được, miễn là đủ chất, ăn uống khoa học để có sức mà còn làm việc khác. Hãy nói nôm na là: Ăn để mà sống và chú ý đừng để vòng bụng lớn hơn vòng đời thì quả là …bất hạnh.
Tụi nhỏ bằng tuổi chúng mình hồi ấy, bây giờ chúng muốn ăn gì mà chả được, đến nổi nhiều đứa béo phì đến là bệnh hoạn. Đúng là đói quá cũng khổ mà no quá cũng … rất khổ.
Tháng 10 năm 2010, anh em Trỗi ở Nha Trang quyết tâm ra Hà Nội nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập trường. Năm chẵn hay lẻ không quan trọng, hứng chí là đi. Chả may, người tính không bằng trời tính. Anh em xé lẻ ra, người đi sớm, người đi muộn. Riêng tôi mấy chục năm rồi, không gặp lại được anh em bạn bè cùng khóa, nên cũng háo hức lắm. Ra tới nơi thấy không khí hoành tráng quá. Là năm chẵn (45 năm) nên Ban tổ chức làm lớn. Bạn bè cũ gặp lại nhau mừng hơn hớn, “ghét” chúng nó quá.
Dùng “gỗ”, Hải Bằng, Quang Chí hình như trẻ ra, đẹp giai hơn xưa; tụi nó mà nhỡ tán thì các cháu cỡ “hăm” cũng có đứa… “chết” lắm chứ. Ai dám bảo các chú đã U60. Thực ra ở quê thì cũng phải ngồi ở mâm các cụ cơ đấy, nếu có giỗ chạp, cưới xin …
Dũng “cận”, Trịnh Tường vẫn điềm đạm lắm, đúng là những cựu Trung đội trưởng nhà nghề (thiếu Tống Thái Liên và Việt Hùng, 2 bê trưởng hôm đó không có mặt). Đố các bạn nghe thấy Dũng “cận” văng tục, chửi thề bao giờ. Đôn Nguyên, Cường “vui” thì càng lớn trông càng phúc hậu. Bạn Tài Chí, Hải Hồng, Xuân Nam, Tuấn Linh và Linh “khắc đ”, Chí Nhân, Bùi Vinh, Đồng Tiến, Trường Chiến, Thanh Hải … thì vẫn y như xưa (nhận ra ngay), chả già đi chút nào. Hoàng Giang “hắc lào”, Việt Thắng, Mai Tự thì có vẻ mắt như đã mờ. Mai Thành thì ngầu hơn xưa bởi vóc dáng và khuôn mặt. Anh Trần Đào Hà Đông lúc đội mũ kê pi trông như một em thiếu nhi Liên Xô. Thái Chi thì vẫn nhiệt tình và hào hứng như hồi làm báo tường cho lớp ở Y Trung ấy.
Còn mình cũng thay đổi nhiều, làm cho anh em không nhận ra. May có Thanh Kỳ giới thiệu, tụi nó mới té ngửa. Chả thế mà hồi đám ma ông Kháng “ròi” xong, cả bọn kéo về nhà anh của Dũng “vịt bầu” (Vân Đồn – Nha Trang). Ổng thấy mình cứ 1 điều anh, 2 điều anh, làm mấy thằng Tiến “nhái”, Cường “con”, cứ nhắc hoài rằng nó (tôi) cũng cùng lứa với bọn em và “vịt bầu” thôi, anh cứ mày tao với nó chứ có sao đâu?
Hình như gặp nhau chưa đã, trưa ngày hôm sau, khóa 3 lại hẹn gặp nhau ở quán bia Hải Xồm, như lời Thái Chi thì đó là theo yêu cầu của các bạn ở Sài Gòn và của cô em gái Cao Quốc Bảo. Lại gặp nhau, lại vui như pháo nổ, cụng ly, cụng cốc chan chát, bôm bốp, nhưng không có 1, 2, 3 .. dô như trong Nam. Bù lại, hát hò vang lừng, lại cả hét nữa, cũng sắp … vỡ quán.
Quốc Quân thì cứ 1, 2 đòi chụp ảnh chung với Võ Song Yên, theo tư thế bá vai, bá cổ, mà nàng thì không chịu cứ ngúng ngoẩy đẩy hắn ra. Tôi góp ý và trấn an Song Yên: “Em đừng lo, nó chỉ là cái thằng sát gái thôi, em thì nhớn rồi, đâu còn gái nữa mà ngại ngùng, cứ tới đi, có bọn anh làm chứng cho …” Mà nói cho cùng thì tại Song Yên thôi, ai bảo em vẫn duyên dáng, mặn mà, đằm thắm, để cho cái thằng kia nó chịu không nổi!?
Nói thật anh không dám “dây” vào chuyện riêng tư của em, nhưng cẩn thận vẫn hơn, chứ thằng Quân nó nghê lắm. Nhất là những hôm nào … mát giời. Em còn nhớ chuyện con mẹ Đốp chứ? Tuy cơ cấu ở thôn, xã bây giờ có khác, nhưng anh tin nếu có điều kiện là nó (Quân) dám làm ông Lý trưởng lắm lắm …
Tôi không được ngồi lâu, vì còn lên chơi chỗ ông bạn “vàng” Thanh Bình (khóa 4) ở Sơn Tây. Chào anh chị em xong là Thanh Kỳ đưa ra ô tô liền, hướng Sơn Tây trực chỉ.
Vậy muốn biết kết cục cuộc nhậu của anh em khóa 3 ra sao, liệu Quốc Quân có kết ảnh được với Song Yên hay không, mời các bạn xem tiếp hồi sau sẽ rõ.
Vậy có thơ rằng:
Lê Xuân Lý
H S khóa 3
Thứ Bảy, 27 tháng 11, 2010
Cảm xúc khi đọc SRTKL
Tập 1 : Có được cuốn SRTKL tập 1 trên tay sau mấy chục năm không có tin tức gì về các bạn Trỗi, tôi ngấu nghiến đọc như một thằng vớ được ly nước lã sau chặng đường vượt sa mạc khô cằn. Lời văn mộc mạc, những câu chuyện bình thường thời trẻ con gợi nhớ lại cả một đoạn cuộc đời nhiều hơn, nhiều hơn rất nhiều những gì có trong sách mà có những lúc tôi đã tưởng như không còn tồn tại. Vậy mà giờ đây nó được viết thành sách! Dù chỉ là cuốn sách nội bộ cho anh em mình.
Tập 2 : Một cuốn sách hoành tráng, trông như 1 tác phẩm văn học (chỉ trông như thôi). Tôi ôm nó, đọc một lèo thâu đêm suốt sáng, rồi lại nghiền ngẫm thêm 1 ngày nữa. Đóng sách lại, nhìn hình anh Lê Minh Tân ở trang bìa, người tôi nôn nao … Trỗi, lính Trỗi là thế đấy! Tôi vừa được thưởng thức 1 ly bia mát lạnh, ly bia của tình bạn được ấp ủ, lên men trong mấy chục năm cho dù thời gian pha chế không dài (5 năm).
Tập 3 : Nếu 2 tập trước là ly nước lã sau khi vượt sa mạc và ly bia mát lạnh lúc đang khát thì tập này là 1 bữa nhậu đàng hoàng. Bữa nhậu có đầy đủ đồ mồi thịt cá, rau cỏ được chế biến tại nhà hàng, bia ngon đủ loại, lựa chọn thoải mái. Hầu hết bài, ảnh, tin tức trong tập này đều đã được đăng trên các blog bantroi và đã được trao đổi, mổ xẻ kỹ càng trong các lần trà dư tửu hậu mà gần như tuần nào anh em Trỗi cũng gặp nhau. Một bữa nhậu như mọi bữa hàng tuần vẫn nhậu và được bạn nhậu chăm chút, soi mói từng cọng hành, từng mùi vị … cho tới miếng ớt hiểm cũng phải được để nguyên trái chớ không chịu xắc ra! Tôi đã nghiền ngẫm nó tới 2 tuần mà vẫn chưa “thuộc” hết các chi tiết.
Vậy đó, nếu có tập 4 ắt phải là cao lương mỹ vị với rượu xịn tại nhà hàng 5 sao! Mà lúc này thì khó đây. Già hết rồi, người uống nhiều, người nhâm nhi. kẻ ăn thịt, kẻ ăn rau và chắc có đứa chỉ muốn … húp cháo? Nếu tập 4 không phải là 1 tác phẩm văn học thực thụ hấp dẫn thì chắc chẳng ai xem, hay có xem cũng là “để coi nó dở đến cỡ nào?”.
A hà! Bạn Trỗi bây giờ không chỉ cần nhớ lại những kỷ niệm mà cần 1 cuốn sách “để đời” cho con cháu mai sau (để làm gì thì chỉ có chúng nó biết!).
Thứ Sáu, 19 tháng 11, 2010
20/11 - Chúc mừng Các Thầy và Các Bạn làm Thầy
Những hạt phấn trắng
Sáng tác: Nguyễn Duy Trung
Hạt bụi phấn nào đã đong đầy trong khoảnh khắc cuộc đời , khoảnh khắc cuộc đời Thầy dắt con qua.
Hạt bụi phấn nào rơi vào từng bài trong trẻo giọng Thầy , ấm áp lòng Thầy như hạt nắng ban mai.
Những hạt phấn đã rơi hôm qua và hôm nay , có hạt nào rơi từ mái tóc của Thầy.
Những hạt phấn vẽ nên tương lai và yêu thương , ấm tình Thầy thiết tha không bao giờ con quên
Bụi phấn bay,
bụi phấn vẫn bay,
nét chữ Thầy đã thôi tròn đầy theo thời gian , theo thời gian từng lớp trẻ đi qua
Bụi phấn bay,
bụi phấn vẫn bay,
có hạt nào đã rơi đọng lại theo thời gian ,theo thời gian chỉ còn Thầy lặng thầm tô trắng cuộc đời bằng dòng phấn rơi rơi.
Thứ Hai, 15 tháng 11, 2010
Sự sợ hãi và lòng thành thật nguyên thuỷ
Câu trả lời hay nhất
Thứ Sáu, 12 tháng 11, 2010
Thứ Ba, 9 tháng 11, 2010
Lá thư của Vũ-Chí-Dũng để lại giữ rừng
Xuân năm 1984, trong một chuyến khảo sát, đoàn cán bộ Nông trường Giải phóng tỉnh Sông Bé do anh Nhân – nguyên cán bộ Trung đoàn Bình Giã - dẫn đầu, ngược thượng nguồn sông Đồng Nai tới một vùng rừng nguyên sinh, đã bàng hoàng trước một cảnh tượng: Trên 3 chiếc võng dù cùng cột chung đầu vào một thân cây là ba bộ hài cốt. Cạnh mỗi bộ hài cốt là một khẩu AK và đôi dép cao su. Một bức thư gói trong ni lông cột ở đầu võng. Những dòng chữ run rẩy, nguệch ngoạc, nhưng với những ý tứ, câu từ sáng rõ, đã giới thiệu:
“Chúng tôi: 1. Lê Hoàng Vũ, quê Thái Bình; 2. Nguyễn Chí, quê Quảng Ngãi; 3. Trần Viết Dũng, quê thành phố Sài Gòn; chiến sĩ thuộc Tiểu đội 1, Trung đội “Ký Con”, Trung đoàn BG (Bình Giã), Quân giải phóng miền Nam …”.
Hồi đó, sau trận tập kích của Trung đoàn Bình Giã và một số đơn vị khác thuộc BTL Miền, diệt một lực lượng lớn quân Mỹ Ngụy ở Bông Trang – Nhà Đỏ (Thủ Dầu Một), tháng 2/1966, trên đường rút về hậu cứ, một tiểu đội, trong đó có các anh Vũ, Chí, Dũng, được phân công nghi binh đánh lạc hướng địch để trung đoàn trở về an toàn. Một tiểu đội 11 người đã làm tròn nhiệm vụ tạo dấu vết một trung đoàn hành quân. Sau mấy ngày băng rừng, hứng chịu hàng chục phi vụ rải thảm của B52, 8 người đã hy sinh. Vượt qua những ngày đói khát và trên mình đầy thương tích, 3 chiến sĩ còn lại đã tới cánh rừng này. Sức kiệt, máy thông tin hư, các anh chọn khu rừng này làm nơi an nghỉ cuối cùng. 3 chiến sỹ dồn sức còn lại viết về cuộc chiến đấu, sự hy sinh của đồng đội; tình cảm, niềm tin. Lần lượt Vũ, Chí ra đi. Người viết những dòng cuối cùng là Dũng.
“ ... Chúng tôi mong được ghi nhận rằng chúng tôi đã từng sống, chiến đấu và đã chết trong một mùa Xuân giữa đất trời như trăm ngàn cái chết của người Việt Nam chân chính cho Tổ quốc và dân tộc sống còn … Xin cho chúng tôi gởi đến những người đang sống, sống đúng ý nghĩa của nó lời biết ơn sâu sắc vì các bạn đang làm cho cái chết của chúng tôi giữ được đầy đủ ý nghĩa. Các bạn đang lao động quên mình cũng như chúng tôi đã chiến đấu quên mình cho đất nước ta ngày nay tươi đẹp, cho dân ta ngày càng ấm no, hạnh phúc, cho xã hội ta ngày càng dân chủ công bằng”.
“Quyết định rồi chúng tôi tự thấy khoan khoái lạ thường. Sáng suốt hẳn lên …Dừng lại ở đây với một ít sức lực còn lại viết một tường trình cuộc chiến đấu gửi lại cho ai đó tìm được …Mỗi người đứng trước cái chết của mình cố gắng dùng một chút sức còn lại, quả thật rất ít ỏi, để thay nhau chấp bút. Chúng tôi đã chọn cây gỗ tơ còn sống lâu này làm trụ, giúp nhau mắc võng cho từng người, thống nhất nhau tư thế nằm trên võng, sắp xếp vài đồ vật còn lại … Chúng tôi sẽ chết ung dung thư thái như đã từng sống mãnh liệt mà thư thái với công việc chúng tôi đã làm”.
“Nhưng rồi các bạn giục kết thúc lá thư đi thôi. Thời gian không chờ chúng tôi nữa. Chúng tôi đã cảm thấy sắp đến giờ phải từ giã cõi đời này rồi. Trước khi ra đi, thư phải được bảo quản cẩn thận để tránh thời gian mưa nắng phũ phàng. Thư, Thư phải về tới tay những người đang sống”.
“Nếu lá thư này được về với đồng đội chúng tôi trong Trung đoàn BG quân giải phóng miền Nam hay một đơn vị bạn nào đó qua đây, xin chuyển lên giùm cấp trên. Tiểu đội Giải phóng quân chúng tôi trong Trung đội “Ký Con” đã hoàn thành nhiệm vụ. Chúng tôi mong được ghi nhận rằng chúng tôi đã từng sống, chiến đấu và đã chết trong một mùa Xuân giữa đất trời như trăm ngàn cái chết của người Việt Nam chân chính cho Tổ quốc và dân tộc sống còn”.
“Còn như chúng tôi được phát hiện muộn hơn sau 5 năm, 10 năm tự do quý giá, thì xin cho chúng tôi gởi đến những người đang sống, sống đúng ý nghĩa của nó, trong một thời đại vinh quang, lời biết ơn sâu sắc vì các bạn đang làm cho cái chết của chúng tôi giữ được đầy đủ ý nghĩa. Các bạn đang lao động quên mình cũng như chúng tôi đã chiến đấu quên mình cho đất nước ta ngày nay tươi đẹp, cho dân ta ngày càng ấm no, hạnh phúc, cho xã hội ta ngày càng dân chủ công bằng”.
“Hay trong trường hợp đến 50 - 100 năm sau, thư này mới tới những người, có thể gọi là thế hệ mai sau, thì cho phép chúng tôi gửi lời chào xã hội chủ nghĩa, cho phép chúng tôi bày tỏ vui mừng tuyệt diệu vì hạnh phúc và hòa bình đang tràn ngập hành tinh chúng ta mà chúng tôi trở thành những hạt bụi có ích – và hơn thế nữa nếu được, cho chúng tôi gửi lời chào niềm nở nhất đến những con người ở những vì sao xa xôi, những người bạn mới giữa các hành tinh”.
“Mùa Xuân giữa rừng miền Đông Nam Bộ.
Vũ-Chí-Dũng”
Hình: "gặp nhau trên đường ra trận"