Thứ Bảy, 25 tháng 9, 2010

Hà Nội trong mắt tôi - Bài 3


Đô thị tự phát

                                          Những điều nhìn thấy
Nhà văn Hồ Anh Thái có lần “cho” nhân vật của mình, từ máy bay nhìn xuống, thấy nhân sinh bên dưới tựa đàn kiến. Cái ý nghĩ có vẻ khinh bạc ấy, nếu chĩa vào Hà Nội bây giờ, cơ hồ như còn trân trọng chán. Kiến là loài có kỷ luật, bầy đàn được tổ chức tốt, kiểu như gặp nhau trao đổi thông tin qua râu là hiểu đường này đi được hay không. Thành ngữ “vỡ tổ” có lẽ chỉ đúng khi chúng bị dội nước, như cách mấy cô bé đã làm trong “Dế mèn phiêu lưu ký” của Tô Hoài. Còn thành phố của chúng ta lại quá nhiều quy luật, chiều hướng chồng lấp nghịch ngược nhau, lắm lúc đem lại cảm giác hỗn độn. Đó có phải là một nhận xét bi quan?
*
Thế thì quan sát cung cách đi đường của người đô thị chúng ta trước. Kẻ mới mua ô tô toe toe khoe còi to. Xe máy lạng lách, “chảy” theo quy luật nước vào chỗ trũng. Xe đạp đủng đỉnh. Ông nào cũng có “luật” của mình, cứ như cái khái niệm “phần đường không phải của mình” không tồn tại. Những anh quê ra gặp người làng tâm sự dăm ba câu giữa đường. Những chị sành điệu vừa lượn SH, Dylan vừa nhoay nhoáy bấm điện thoại. Người ta chửi cảnh sát giao thông ác, “có tý cũng phạt”, trong khi những ông này lại “chán chả buồn phạt” dân nghèo hay người đi xe đạp. Vắng bóng cảnh phục là đi tắt, vượt đèn đỏ, chết ai đâu mà kiêng. Cho nên ai chấp hành luật thành ngu, người nước ngoài sợ rúm người khi được phép qua đường.
Phố ta nhiều kẻ quê, mà tình quê rất quý. Nên hai ông va chạm sắp đánh nhau, nhận ra giọng đồng hương thì cảm động cùng tiến vào quán bia ngay. Những đội sếp Tây như trong truyện Nguyễn Công Hoan bị lên án. Đã chẳng có máu đồng bào thì chớ, bọn “Min đơ Min toa” này lại ác, cứ nhè thằng vứt chuột chết ra đường, con khạc nhổ lung tung mà phạt. Chúng nó đại diện cho đế quốc, mà đã đế quốc thời cái gì cũng là đồ hủi, nên bỏ. Các vị đại diện pháp luật ít nhiều có thái độ hiền từ trước thói đi đường xấu. Nhưng gần đây, nghe nói công an Hà Nội cho phép cảnh sát giao thông được hưởng một tỷ lệ trong tiền phạt, dù sao sự nghiêm khắc cũng tăng lên được.
Không thể đổ lỗi hoàn toàn cho cảnh sát giao thông, cũng không thể nói thành phố toàn người “đi láo”. Sang mấy năm cuối của thập kỷ đầu tiên trong thế kỷ XXI, cũng có những quy định, những công trình để khắc phục, như xây cầu vượt, làm rào chắn chỗ giao lộ bắt đi vòng…, kể thì cũng là chịu nghĩ chịu làm chịu chi. Nhưng vẫn toàn “thành tích khắc phục”, chứ cái nguyên nhân thì không (thể?) đụng đến. Đây cũng là điều dễ thấy khi trông sang trật tự xây dựng.
Hiển nhiên phải kể trước cái hình ảnh thành phố đang vươn lên tầm cao ở nghĩa đen. Mấy chục khu đô thị mới có trường học, siêu thị, khu vui chơi, thậm chí mặt nước, cây xanh xuất hiện. Hàng trăm chung cư hai ba chục tầng vừa tiết kiệm đất vừa đem lại hình thái mới cho sinh hoạt đô thị: hàng xóm biệt lập không biết nhau, rác đổ vào “ống”, điện nước khí đốt gửi xe có bộ phận quản lý, sáng ra cả nhà chui ô tô vào trung tâm bố mẹ đến sở con học trường “cao cấp”, chủ nhật đi siêu thị mua đồ ăn cho cả tuần. Ở nhà này khổ nhất những bà cụ quê ra, dù con giàu có ngất ngưởng mà không tìm đâu ra đồng hương, thậm chí bị “dốt”. “Ô sin” thì giải quyết nỗi nhớ nhà dễ hơn, tối đến bế con chủ xuống sân trước là tha hồ “buôn” với người cùng đẳng cấp. Căn hộ biệt lập, từ gia đình đến cá thể đều được giải phóng khỏi quan niệm, “quy định” xã hội, cũng nên được đánh giá là một sự tiến bộ.
Có lẽ từ tâm lý cần đất, quý đất của nông dân, nhiều người có của vẫn thấy mình “không có đất” khi ở chung cư. Căn hộ liền kề xây trên đất chia theo lô (đã chấm dứt từ cuối thế kỷ trước) “sang trọng” hơn, hình thành nên khái niệm “nhà công ten nơ”. Sang nữa là những khu biệt thự nhà cửa khuất sau tán cây, tiếc là tâm lý tận dụng vẫn còn đó, nên ít người tôn trọng tỷ lệ nhà - đất khi xây dựng. Không ít chủ, khi kiến trúc sư vẽ tầng một có độ cao quá 4 mét đã “hay là làm gác xép”. Tuy nhiên, chung cư cao cấp hay biệt thự im ỉm đều ít nhiều mang lại dáng vẻ “kiêu sa” cho thành phố, tất nhiên lại làm nảy nở sự so sánh rằng “xã hội đang phân hoá ghê quá”. Và không làm chung cư cao tầng thì đất đâu mà chia mãi!
Cạnh khu đô thị mới thường là làng cũ, cư dân là chủ ruộng đất đã bị lấy. Bỗng nhiên được thành công dân phường, người nội thị hẳn hoi, sang quý thay, họ lại phải đối mặt với tình trạng là nông dân mà không còn đất. Buôn bán, làm thợ, học hành thành trí thức… đều không biết, cầm đống tiền đền bù mất ngủ kinh khủng. Chưa kể ao hồ lấp hết, nước thải chả biết đổ đi đâu, chưa kể cha mẹ muốn chết vì con cái đòi chia tấc đất - tấc vàng hay chơi bời nghiện ngập.
Còn cái lõi của đô thị - khu phố cũ, khu phố Tây và lân cận thì sao? Chật ních. “Phố cổ sống khổ”, ít người tưởng ra điều ấy khi nghĩ về Ba sáu phố phường. Ăn uống ngon, trường học tốt, nhưng ô nhiễm, bất tiện kinh khủng. Thành phố không cho xây cao nên gia đình sinh hoạt trong mươi mét vuông. Hàng Ngang Hàng Đào tiền nong dư dật thì thường bên dưới là dân đến sau, thuộc sở hữu nhà nước, bên trên anh cũ bị cải tạo những năm sáu mươi thế kỷ trước còn sở hữu, không thể thống nhất để sửa sang được. Ai mà ngờ trong khu vực mỗi mét vuông giá ba bốn chục lạng vàng, “tiền đè chết người”, buôn bán rầm rập thuế đóng nhiều nhất thành phố, vẫn còn hố xí xập xệ, cống rãnh ứ trệ. Rất khổ, kể cả khi được phường quận “bầu” lên làm “Gia đình văn hoá tiêu biểu” vì có vài bốn thế hệ cộng sinh hiền hoà.
Trông sang khu phố Tây, không còn mấy cái hình ảnh sang trọng, biệt thự êm đềm ẩn sau cây cối. Nhà bồi nhà bếp đằng sau chia nhau lên tầng, phía trước xuất hiện ki - ốt rồi cũng lên tầng. Ngôi nhà chính các gia đình thành viên chia cắt, sàn gỗ không đánh xi, cầu thang bước chỉ sợ sập, máng sành vỡ rỉ nước bẩn, ban công không ngăn lại thành bếp thì cũng um khói róm than tổ ong. Các khu tập thể cũ như Kim Liên, Trung Tự, niềm mơ ước của công chức cấp sở ngày nào, người ta đục tường nới ban công nới cả tầng bằng “con sơn” đưa ra, kết cấu nhà bị phá vỡ nguy hiểm kinh khủng. Sân chơi cho trẻ con, người già bị lấn dần dần, trường kỳ, nhà mới mọc lên có cửa sổ trông sang nhà cũ rất hồn nhiên. Liệu có thể nói hình ảnh chính của kiến trúc – xây dựng khu nội thị bấy nhiêu năm qua là cơi nới?
Quy hoạch là chứng cứ về tầm vóc nhà quản lý với đô thị của mình, và sự ổn định của đô thị ấy. Vai trò của Pi - ốt Đại đế với Xanh Pê – téc – bua, của vua Lu – i (mười mấy?) với Pa – ri đã rất rõ. Những nguyên tắc của quy hoạch trường tồn vài thế kỷ dù chế độ chính trị luôn thay đổi. Ta thì Lý Công Uẩn khi dời đô ra Thăng Long đã vượt khỏi tầm một thủ lĩnh quân sự, bước sang thời đàng hoàng bang giao thiên hạ. Nhưng chuyện đó lâu quá rồi. Hà Nội gần đây có quy hoạch tổng thể không?
Tất nhiên có! Hình như cái đầu tiên do Liên Xô vạch ra. Sau đấy chiến tranh liên miên xen với hoà bình, xây dựng, nó được điều chỉnh nhiều lần. Những ý đồ đưa Thủ đô lên Xuân Hoà, Xuân Mai (chữ “Xuân” nhiều thật), Vĩnh Yên. Những chọn lựa lấy đâu làm trung tâm. Bao nhiêu lần quyết định là bấy nhiêu công sức, toan tính, và nông dân mất thêm ít đất. Quy hoạch Thủ đô, cả quy hoạch từng vùng trong đó, đôi lần được đem ra báo cáo, lấy ý kiến. Và những đề đạt, trong đó có “cái” của kiến trúc sư Trần Thanh Vân lấy vùng giữa hồ Tây và sông Hồng làm “nhân” thành phố. Tóm lại là nhiều quá, khiến tâm lý “ta không có quy hoạch lâu dài” xuất hiện, rất bất an.
Thế giá trị của những quy hoạch ấy thế nào? Chỉ xin quay lại Bờ Hồ, “lẵng hoa giữa lòng thành phố”, không gian văn hoá - lịch sử mà ai tới Thủ đô cũng phải tìm cách đi bộ đủ một vòng. Nó đã đứng vững được “khoảng” trăm năm, từ khi người Pháp xây toà Thị chính xinh xắn, phố Hàng Khay chỉ lấp xấp hai ba tầng. Được bảo vệ bằng “luật” rằng các kiến trúc quanh đó không thể nhô cao hơn tầm 30 độ so với mặt nước, con hồ huyền thoại “tránh xa” được các kích thước cỡ Nhà thờ lớn. Duy nhất có Thuỷ Tạ lấn sang mặt nước được nhưng cũng khiêm nhường. Tình hình liên tục xấu đi từ khi khát vọng phồn vinh trỗi dậy. Sau đổi mới, ai có điều kiện - trước hết là tiền và quyền lực - đều muốn in dấu ấn lên khu vực huyền thoại này. Nhà bưu điện vuông vức, khối nặng chạy quá dài. Toà Thị chính mới in lên nền trời đường nét nghiêm khắc. Do là đôi công trình nhà nước, báo chí không thể làm gì. Nhưng họ đã ầm lên khi khách sạn Hà Nội vàng và ngôi “Hàm cá mập” thành hình, khiến cả hai phải cắt bớt kích cỡ, kiểu dáng đè nén định có. Thế rồi khi một cơ quan (lại là “ông” Nhà nước) định lên trụ sở đồ sộ “đè” hẳn “luật” 30 độ nói trên, các bên hữu trách như Thành phố, Bộ Xây dựng… đã “phối kết hợp” sửa quy hoạch khu vực Bờ Hồ để không ai nói gì được. “Sửa” mỗi chỗ đó, xong đóng lại không cơi nới thêm trường hợp nào nữa. Mới đây, Điện lực Việt Nam lại mở cuộc xâm lăng đè chết không gian huyền thoại bằng toà siêu thị phía đông, nhưng thất bại; may là báo chí lại được mở mồm.
Hồ Gươm, lẵng hoa giữa lòng thành phố, nếu không được bảo vệ bằng một sắc lệnh cỡ “Chiếu dời đô”, lúc nào cũng bị đặt dưới hoả lực của khát vọng hiện đại hoá.
Lạ, là trong bối cảnh ngặt nghèo ấy dân kiến trúc vẫn mơ màng một không gian còn tươi xanh, đậm tính lịch sử - văn hoá hơn cho Bờ Hồ. Lê Thị Kim Dung, mới đây là Hoàng Thúc Hào, đã giành giải thưởng quốc tế khi muốn có đường đi bộ, giảm bớt tiếng động, xe khói quanh hồ, làm cho nó thật gần gụi thiên nhiên. Tất nhiên đó chỉ là ý tưởng. Tin rằng ai đó thực hiện điều mình nghĩ ra, hoạ có là phát rồ. Kiến trúc sư cứ thi, giành giải để tỏ rằng “tôi cứ giữ quyền mơ mòng đấy”, hay vì cái gì?

Phía thượng tầng
Dăm sáu chục năm nay chiến tranh hoà bình thống nhất đất nước rồi đổi mới… vần vũ, tạo nên những thay đổi trong thành phố. Sau tiếp quản công nông binh lên ngôi, những cán bộ quân sự được cử ra ngoài nắm vị trí yết hầu. Người có của bạt đi Nam, nước ngoài, ai ở lại bị cải tạo nhà cửa rất chới với. Trí thức, nhiều người là con cái khoa bảng phong kiến cũ được tận dụng tuỳ hoàn cảnh, tuỳ mức độ “trầm trọng” trong lý lịch. Chiến tranh tạo dựng một trật tự nghiêm khắc cho sinh hoạt, bổ nhiệm, nói năng, ăn mặc…
Sang thời đổi mới, xã hội có chiều hướng dân sự hơn. Luật pháp được hô ủng. Thì cán bộ đoàn lên ngôi. Nhiều vị trí then chốt không “kinh qua” quá trình này thật khó bổ nhiệm. Phải nói là họ giỏi “hô” lên các phong trào, kiên nhẫn tiến thủ. Khi bằng cấp là một tiêu chuẩn trong nguồn cán bộ, họ lại chịu khó học. Chính trị, chuyên môn phải vững cả đôi chân, nên cấp phòng cấp sở trở lên đều hết bằng này đến bằng nọ. Nghĩa là cán bộ được trí thức hoá. Có cơ quan báo chí quy định ai cũng phải học, rồi chả ai đánh máy, sửa chính tả.
Song song với các thời, các trào lưu cán bộ, là làn sóng nhập cư vừa bền bỉ vừa vũ bão. Thành phố ngày Tết vắng vẻ vì cư dân về quê cả, được hưởng thú đi bộ thấy rất thanh bình. Quá rằm tháng giêng, lao động từ đơn giản đến cao cấp lại ập vào, giải quyết nhiều nhu cầu và cũng gây áp lực không ít. Hà Nội ngày thường dễ chín mười triệu dân. Không ít hơn đâu.
Sang thế kỷ này, Thủ đô mở rộng, đô thị hoá như vũ bão. Cỗ xe thô sơ phải chạy với tốc độ “Công thức I” cuống cuồng cuồng. Những tảng cấu trúc dân cư cũ rơi xuống. Những tập đồng hương đồng môn đồng nghiệp… mọc lên. Khái niệm “nhóm quyền lợi” ra đời và ngày càng hay được nhắc đến. Đấy là những “yếu tố tạo nên hoàn cảnh” phải tính đến khi xem xét phần thượng tầng của đô thị. “Xem” một phần thôi, và tất nhiên là cảm tính.
*
Về giáo dục, vùng cũ của Thủ đô cơ bản đã phổ cập trung học cơ sở, nhiều nơi xong cả trung học phổ thông. Hệ thống giáo dục thường xuyên, dạy nghề hình thành, vươn lên cao đẳng cả. Những giải thưởng quốc tế (quốc gia thì không tính rồi). Những cải tiến sách giáo khoa, bồi dưỡng giáo viên, tiêu chuẩn hoá học hàm học vị trong các đại học và viện nghiên cứu. Những trung tâm ngoại ngữ nhiều “như nấm sau mưa”. Các trường phân tầng thành đẳng cấp trên dưới, sự xếp sắp lành mạnh và cần thiết. Tóm lại là hình ảnh một xã hội học tập hình thành. Phải công nhận là thanh niên bây giờ nạp vào một lượng kiến thức, ngoại ngữ, cập nhật thông tin để tiếp cận thế giới hiện đại nhiều hơn so với thế hệ cách đây hai ba chục năm. Có thể điểm ra nhiều điểm tích cực nữa về dân trí.
Nhưng phát triển ở nhiều khía cạnh lại khó bề kiểm soát. Nhu cầu học lớn thật, mà ai cũng muốn con thoát kiếp làm thợ. Thế là hình thành cuộc chạy đua từ mẫu giáo: cho học ngoại ngữ, học chữ. Có trường tiểu học chỉ tuyển sinh đã qua mẫu giáo vì “đã biết đọc biết viết”. Trường trung học xịn quát giá nghìn đô (không thể công khai) mà cửa chạy đông nghìn nghịt. Học thêm, nhồi nhét kiểu “gạo”, thầy dậy trò chép rất phổ biến. “Tuổi thơ bị đánh cắp”, ai cũng gào lên như thế nhưng đố thoát khỏi cái guồng quay nghiêm khắc. Hệ thống dậy nghề kiểu cắt may, điện dân dụng chỉ hứng được con nhà nghèo hoặc con thằng giầu mà không bổ đầu nhét chữ được. Bởi ai cũng muốn làm thầy, thành kỹ sư, cử nhân bất kể sau đó ra làm việc trái ngành đào tạo, hệ thống đại học phình to như ung thư. Lấy đâu lắm giáo sư giỏi mà đào tạo lượng tốt nghiệp lớn thế, nên các “hệ” cấp thấp được đẻ ra, bên trên là “lớp tài năng”. Cái hình chóp giáo dục, mô hình phát triển lành mạnh ngày càng vĩ đại phía “thượng tầng”. Điều rất khó ngờ mà tồn tại trong một thời gian dài: điểm vào đại học Sư phạm - cỗ máy cái đào tạo kiến thức phổ thông, lại vào loại thấp, chìm lỉm trong những trường ngất ngưởng chữ “ngoại”. Sinh viên báo chí đến thực tập các toà soạn đôi khi nhận được lời khen “viết câu đủ thành phần nhỉ”.
Ở phía trên, bộ máy quan liêu có những tiêu chí mới, chẳng hạn phải tiến sĩ, phải đủ bấy nhiêu bằng chính trị, quản lý thì mới được bổ nhiệm. Thế là những ông “chăm học”, những ông đã thi là đỗ xuất hiện. Báo chí “giật” tít “Chạy quyền chạy chức: đầu tư siêu lợi nhuận”. Các thầy cũng khả kính một cách đáng ngờ, cho thấy giới trí thức tha hoá chả khó khăn gì. Đã đến lúc xem xét lại cái định đề “Dân tộc ta hiếu học” vằng vặc bất biến lâu nay, khi học là để tốt nghiệp, vừa học vừa kính thầy 20-11 chạy cô 8-3, tết lễ không thiếu dịp nào, và có tấm bằng là quăng hết sách vở. Một ông rành Hán Nôm bảo các cụ trên bia Văn Miếu không nhiều người có tên trong “Tác gia Việt Nam” lắm, tức là cử tử trường ốc nhai văn nhá chữ đỗ rồi ra làm quan thôi, quan đến giờ vẫn sướng chứ lỵ. Sướng mà lại sang.
Trí thức nhiều, bằng cấp lắm, năm nào thành phố cũng vinh danh thủ khoa trong Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Nhưng cái định nghĩa giản dị “Đại học là tự học” của cố Bộ trưởng Đại học Tạ Quang Bửu đúc kết hoá ra vẫn còn là xa lạ. Phải nhớ, phải thuộc, chệch đáp án, hỏi “mẹo” tẹo là không lần được. Dạy văn thì đếm ý ăn điểm, toán thì luyện đi luyện lại các dạng. Sự suy luận chủ quan dẫn đến các kết quả khác nhau, dù không hẳn thầy cô nào cũng phản đối nhưng không tồn tại được vì “không thể chấm điểm”. Lỗi kỹ thuật hay lỗi hệ thống, rằng ta là loại dân không thể sáng tạo?
Hẳn là không vừa lòng với cách dậy khuôn thước, bóp chết tư duy chủ quan nói trên, nhiều nhà có điều kiện cho con ra nước ngoài học. Họ gọi đó là “tị nạn giáo dục”. Nhiều “hiền tài” như thế không trở về nước, trong khi trong nước, các cơ quan Nhà nước có chính sách bổ nhiệm “hiền tài” - tức người có bằng tiến sĩ, báo hại trưởng phòng này, phó giám đốc nọ trở nên chăm học, theo đúng lời khuyên của Lê nin. Nhưng cái mác trí thức có khiến họ tạo lập một tư duy độc lập đâu, ý kiến riêng, phát hiện khác không, phản biện lại càng không. Phản biện phải có tư thế bình đẳng, trong bộ máy quan liêu tôn ty mới là thứ đáng quán triệt nhất, nên nó không tồn tại. Đâu như là “thủng” điều này, không ít thanh niên ra trường từ chối một vị trí trong cơ quan nhà nước, chọn làm ngoài. Làm thuê cho chủ tư cũng có cái khốn nạn nhưng đâu như lề luật trên dưới thẳng đuột, dễ lần ra hơn, xác định chấp nhận là xong. Chứ phận công chức, ngành khoa học chẳng hạn, viết cả đề tài vẫn phải sếp chủ biên; đến lúc anh công chức ấy lên sếp lại chủ biên một lúc dăm bẩy đề tài, địa hạt chuyên môn xa nhau mấy cũng “lãnh chỉ đạo” được. Nghĩa là anh thị dân trí thức ấy chưa thể cắt cái đuôi “tiên chỉ mâm bát nào cũng phải ngồi”, ngồi cho oách, biết thế, còn tham không chưa biết.
Trật tự công chức nảy ra những mối liên hệ để quan sát rất thú vị, làm đề tài lớn nhưng dường như chỉ để cho văn nghệ “thể hiện”, kiểu Sê - khốp đã làm. Đấy là tâm lý phe giáp, “hương đảng tiểu triều đình”, từ cấp phường đã phải đủ “mâm bát” cho “tiên chỉ”, càng lên càng sẵn, để mà trách nhiệm chịu chung tuy quyết định cuối cùng chỉ vài anh. Những trí khôn vặt vãnh, nông cạn của người quen nhìn không quá bờ ruộng của mình như là đang nhường chỗ cho “cái mới đương lên”: những “khối lợi quyền” cố kết chả ra hình thù nào, những chia cắt khó mà nhìn thấy, những lời lẽ, từ ngữ ai tin thời dại dột. Bên trong sơ mi cravát - một “mốt” đồng phục - là sự hãnh tiến, thói ham quyền lực, cái rên rỉ ken két, cái rất “hoành tráng lệ”. Nên đánh giá đây là “tàn tích” tiểu nông hay “biểu hiện” tiểu thị dân, chưa rõ. Nhưng có điều đang phổ biến dần: ngày càng nhiều thanh niên gốc đô thị không chấp nhận nó. Họ bỏ vào Nam làm ăn, nơi dịch vụ đắt nhưng sắt ra miếng, không có khoản “phát sinh” đâm lại rẻ hơn, không có kiểu nói “thôi tôi làm giúp anh thôi” sau khi đã thoả thuận giá cả. Hình như ở Nam Bộ, với cơ chế làng xã, đồng hương lỏng lẻo hơn, ý thức cá nhân phát triển khiến người ta sòng phẳng, ngửa bài hơn trong giao tiếp. Một chú binh nhất khi ra quân sẵn sàng làm những nghề đơn giản, đủ sống chứ không nhất thiết tìm mọi cách “thoát ly” để tiếp tục làm “người nhà nước”. Không ít người Bắc han rỉ trong bộ máy công chức, khi vào Nam lại thể hiện được mình, sáng trưng lên. Thủ đô, một mặt thu hút được tinh hoa Bắc Hà, Hoan Ái, bổ sung sức sáng tạo, mặt khác lại để mất những nguồn sáng như thế. Điều ấy dường như bổ sung cái đặc điểm dân cư nghĩ ra rất khó phấn khởi, là anh không sáng tạo được ở cái gốc của mình, để chỗ cho anh mới “múa”. Anh mới có yêu gốc mới bằng anh cũ? Hừng hực tham vọng, không hối tiếc những “kỉ niệm vớ vẩn không bốc mùi tư sản thì cũng phong kiến”, anh ta phả vào đời sống thành phố nhịp gấp gáp mà thiếu nhân văn, coi đó là “phát triển”.
Thành phố đông đúc, người đổ về ngày càng đông, cái tính chất “tứ xứ”, “bến bãi” khó mà tránh. Bên Pháp, thủ lĩnh đảng Mặt trận Dân tộc Le Pen, với sự ủng hộ của bà đào Brigide Bardot, ra sức bài trừ làn sóng nhập cư, thưởng tiền cho phụ nữ “thuần Gô – loa” đẻ nhiều, cho đội tuyển Pháp vô địch bóng đá thế giới năm 1998 với nhiều anh da mầu là “đáng xấu hổ”. Ta mà làm vậy khí không phải phép. Nhưng đã có những đối thoại kiểu sau: nghe A. than phiền thành phố quá hỗn tạp, B. bảo “Hà Nội là của riêng các anh à?” – “Thế căn nhà anh có thêm đàn đống cháu chắt từ quê ra được không? Cứ cho là các cháu ấy rất có tinh thần xây dựng đi, nhưng lồng tất chiếc nọ sọ vào chiếc kia, khăn lau nhà cứ lấy chùi bàn anh có phải chỉ bảo không? Và chỉ bảo được, thì trong căn nhà của mình anh có được xử thoải mái không? Tự do trên hết. Tôi là tôi cứ ích kỷ vậy đấy…”. Đô thị, một phần nào đấy giống căn nhà, dung nạp bốn phương quá sẽ xáo động, nháo nhào. Một gia đình đa phong cách quá thành vô chủ. Cố giáo sư Trần Quốc Vượng từng “tổng kết” định đề nổi tiếng “Hội tụ - kết tinh – lan toả” về sự chan hoà giữa Hà Nội và tứ xứ. Nhưng lại có chiều ngược lại, tứ xứ đổ về “Thích nghi - ổn định - chế ngự, khai thác” thành phố. Vậy là nảy ra cái xu hướng tự phát thật khó kiểm soát. Đấy là đặc điểm cần được nhìn thấy, chấp nhận, như ta đang quen dần với những tắc tỵ trên đường.
Nhìn ra ngoài, các thủ đô Bắc Kinh, Wasington có quy mô chả thấm là gì so với Thượng Hải, New York. Cái họ cần giữ là các đặc trưng, không phải chỉ kiến trúc mà còn cả cấu trúc, tính cách dân cư. Hình như Hà Nội cũng có người quan tâm đến điều này. Nhưng mới đây, một dự thảo “quy chế nhập cư” khi đưa ra bàn để thông qua đã phải bỏ phần định rằng người tới thành phố phải có một trình độ lao động nhất định thông qua sự chứng nhận nào đấy. Có nghĩa là tình trạng đông nhưng không tinh còn là câu chuyện rất dài, càng ngày càng dài.

Trần Chiến K3

Thứ Sáu, 24 tháng 9, 2010

THÊM CHUYỆN CHO VUI : TRỌNG LƯỢNG LINH HỒN




Là Hư cấu...nhưng có không trong "Lịch sử phát triển trí tuệ loài người" rằng không hề có những điểm tựa mà bắt đầu cũng từ hư cấu của tiền nhân?.

(...
Chết như thế nào là một điều bí ẩn.
Từ thưở khai thiên lập địa tới nay, chết như thế nào vẫn luôn luôn là một điều bí ẩn.
...Lý trí học...
...Vài năm trở lại đây, môn khoa học này bắt đầu mở ra nhiều cánh cửa tri thức mới, giúp tìm hiểu sức mạnh của trí tuệ con người. Nhân loại còn rất nhiểu tiềm năng đáng kinh ngạc chưa được khai thác.
...Luận thuyết chung rất đơn giản : Chúng ta mới chỉ chạm đến bề mặt trí tuệ và năng lực tinh thần của mình mà thôi.
...Năm 2001, trong những thời khắc tiếp theo sự kiện hãi hùng ngày 11 tháng 9, lĩnh vực Lý trí học đã đạt được bước tiến vượt bậc...Xem ra, phát hiện đáng kinh ngạc ấy trùng khớp với một tín điều xa xưa, theo đó người ta tin tưởng vào "ý thức vũ trụ"-một tập hợp to lớn những ý hướng con người mà trên thực tế có thể tương tác với thế giới vật chất.
..."tập hợp tư duy" đủ sức tác động đến bất kỳ thứ gì, từ khả năng tăng trưởng của cây cối, hướng cá bơi trong bát, cách tế bào phân chia trên đĩa cấy vi khuẩn, quá trình đồng bộ hóa những hệ thống tự động cách biệt, đến các phản ứng hóa học trong cơ thể ai đó. Thậm chí ý niệm cá nhân có thể biến đổi cả cấu trúc kết tinh của một chất rắn mới hình thành.
... "Bằng cách này hay cách khác, ý thức sống có tác động đến việc biến khả năng thành sự thật. Yếu tố quan trọng nhất tạo ra vũ trụ của chúng ta chính là ý thức quan sát vũ trụ đó".
...nếu biết luyện tập, ta có thể tăng cường mức độ ảnh hưởng của ý thức lên thế giới vật chất, ý thức là một kỹ năng hình thành được nhờ rèn giũa. Cũng như ngồi thiền, muốn khai thác sức mạnh thật sự của "tư duy" thì phải luyện tập. Quan trọng hơn một số người bẩm sinh thành thạo trong việc điều khiển ý thức hơn những người khác, và trước đây đã có vài người thật sự trở thành những bậc thầy. Đó là mắt xích còn thiếu giữa khoa học hiện đại và thuyết thần bí cổ xưa.
..."- ...hạt cát nhỏ bé này có khối lượng. Một khối lượng rất nhỏ, nhưng vẫn là khối lượng.
- Và vì hạt cát này có khối lượng nên nó có trọng lực. Tất nhiên cũng rất nhỏ, nhưng vẫn có. "
...Thiên đường có tồn tại không? Chuyện gì xảy ra khi chúng ta chết đi?...khái niệm "cuộc sống sau khi chết" là sự tưởng tượng, là một câu chuyện thần tiên được tạo ra để xoa dịu sự thật hãi hùng rằng chúng ta không thể nào sống mãi.
...vấn đề dai dẳng nhất trong triết học, đó sự tồn tại của linh hồn con người, đặc biệt là con người có sở hữu một loại ý thức nào đó đủ khả năng tồn tại bên ngoài cơ thể hay không...Phật giáo và Bà la môn giáo đều xác nhận thuyết luân hồi...trường phái Platon định nghĩa cơ thể như một "nhà tù" nơi linh hồn thoát ra, còn phái khắc kỷ gọi linh hồn là apospasma tou theu-"một phần tử của Chúa"- và tin rằng nó được Chúa triệu hồi khi rời bỏ thể xác.

...Katherine nhận thức được rằng sự tồn tại của linh hồn con người có lẽ sẽ là một khái niệm sẽ chẳng bao giờ chứng minh được về mặt khoa học. Việc xác nhận rằng ý thức tồn tại bên ngoài cơ thể con người sau khi chết cũng mong manh như phả ra một làn khói và hy vọng vài năm sau tìm lại được nó...Theo Lý trí học thì tư duy có khối lượng, và vì thế linh hồn con người có thể cũng có khối lượng.
Liệu mình có cân được linh hồn một con người không?
Dĩ nhiên, ý tưởng đó là không thể...hoặc thậm chí còn rất vớ vẩn.
Nhưng ba ngày sau...Cô vùng dậy, phóng xe tới phòng thí nghiệm và bắt đầu thiết kế một phép thử đơn giản đến kỳ lạ...mà táo bạo đến đáng sợ...Bốn tháng sau, cuối cùng Katherine cũng dẫn anh trai tới phòng thí nghiệm.
...- Em chế tạo một chiếc cân chính xác để cân người à ?
- Chính xác - Katherine nhấc cái nắp trong suốt của cỗ máy lên - Nếu em đặt một người vào trong cái kén này và đóng nắp lại, người ấy sẽ nằm trong một hệ thống đóng kín hoàn toàn. Không gì có thể lọt vào hay lọt ra, dù là không khí, chất lỏng, hay phân tử bụi. Cũng chẳng có gì thoát được hết, dù là hơi thở, mồ hôi bay hơi hay chất dịch của cơ thể.
...Vợ của người hấp hối tiến đến gần, cúi xuống, và nhẹ nhàng hôn lên trán chồng mình. Ông già vẫn không mở mắt, nhưng môi ông động đậy, rất khẽ khàng, thoáng hiện một nụ cười yêu thương.
...Phút cuối đang đến rất gần. Với nghị lực và thái độ bình tĩnh đáng nể, vợ ông chậm rãi hạ cái nắp trong suốt và đóng kín lại...Thông số điện tử hiển thị :
51,453 4644 Kg
- Đó là trọng lượng cơ thể của ông ấy, - Katherine giải thích.
...Một lúc sau khi ông cụ qua đời, các con số trên cân đột ngột giảm xuống. Ông cụ nhẹ đi sau khi chết. Sự thay đổi về trọng lượng là rất nhỏ, nhưng vẫn đo đếm được.
Katherine nhớ rằng cô đã run rẩy viết vào sổ nhật ký phòng thí nghiệm " Khi con người chết đi, dường như có một thứ "vật chất" vô hình thoát ngay ra khỏi cơ thể họ. Trọng lượng của nó là định lượng được và không hề bị ngăn cản bởi các rào cản vật lý. Tôi phải thừa nhận rằng nó di chuyển theo một chiều mà tôi chưa lý giải nổi"
...)

Lược trích từ "Biểu tượng thất truyền" của Dan Brown - Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2010.

XN.K3

Chủ Nhật, 19 tháng 9, 2010

Hà Nội trong mắt tôi - Bài 2

Thị dân, anh là ai?

Chốn quần cư.
Nhắc đến tính cách Thăng Long - Hà Nội, người ta thường dẫn câu của Nguyễn Công Trứ “chẳng thơm cũng thể hoa lài / Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”. Nhưng ở Tràng An, chỉ cái chốn đô hội của chúng ta, chả phải ai cũng thanh lịch, và chả phải đâu đâu cũng là “đô hội”. Là bởi vì cái tính chất quần cư của thành phố. Đấy là cái nơi ai cũng đến được, đến thì ở lại được. Nhiều người về hưu về Hà Nội. Trẻ đánh giầy, mỗi kỳ tết lễ “bỏ” lên xe, cấp quần áo trở về quê, ít lâu lại xuất hiện ở phố. Cuộc sống xa nhà đầy bất trắc, tai nạn, bệnh tật, hiểm nguy rình rập, chừng như đối với những “Ga - vơ - rốt đến từ Thanh Hoá” vẫn cứ hấp dẫn hơn. Nên chi “tôi thị dân, anh thị dân, chúng nó cũng thị dân”. Cố giáo sư Trần Quốc Vượng, khi đưa ra cái “lô gô” nổi tiếng “Hội tụ - Kết tinh - Lan toả”, cũng đồng thời xác định cái tính chất quần cư của thành phố. Ông bảo thật khó định nghĩa thế nào là người Hà Nội, nhưng cái tính chất cá biệt, chỉ riêng nó có thì tồn tại, tồn tại một cách bất diệt qua đằng đẵng những cay nghiệt của lịch sử.
Hà Nội hình thành từ một bến nước ven sông, chắc thế. Từ những căn quán bán nước chè, kẹo bột cho dân đợi đò, khu chợ hiện lên, trao đổi những tre luồng, gạo mắm. Rồi quan binh kéo về, thành trì mọc ra, có khu cho vua và vợ con, khu của lính tráng. Quanh thành là vành đai thị, với những làng nghề đặc trưng, sau trở thành những phố hàng (Hàng Bạc, Hàng Buồm, Hàng Bông...). Sang thế kỷ XIX, khu phố Tây mọc lên với biệt thự, thư viện, bệnh viện..., nhà gạch có thể tồn tại cả trăm năm thay thế nhà tranh tre “cháy một cái đi vèo cả khu phố được”. Trải cả nghìn năm qua, Thăng Long - Hà Nội bao phen không được “phi chiến địa”, lúc Chiêm Thành ra, Nguyên Mông Minh Thanh xuống, nhưng cái tính chất là bến đỗ cho những đời người bốn phương thì không bao giờ thay đổi. Và lạ chưa, từ cái chỗ tấp lại, chả phải quê hương ấy, có những bông hoa vụt lớn lên, lấp lánh bền bỉ qua năm tháng đoạn trường. Nguyễn Du quê mãi Hà Tĩnh, nhưng nếu không đẻ ở kinh kỳ, chạy loạn muôn nơi ăn lộc hai triều, làm sao để lại được gương mặt buồn thảm cho đời. Giải nguyên Nguyễn Công Trứ nếu cứ ở Nghi Xuân thì có thể “giương” cái phong cách ngất ngưởng lên? Họ là người tài, đến đây được nhào nặn thì mới thành tinh hoa được. Nói thế lại có thể hình dung tiếp: cũng có bao ông tài hoa hơn Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ nhưng cứ ngâm vịnh sau luỹ tre làng mãi rồi đâm ra gàn dở lụn bại. Cái hồn vía, linh khí, tinh chất gớm ghê của Thăng Long - Hà Nội là ở chỗ này.
Kinh tế đô thị phát triển tạo ra thị dân, và họ tác động trở lại cái “nặn” ra họ. Ngoài nông, Thăng Long có cả sĩ, công, thương, những kẻ làm dịch vụ như¬ kỹ nữ, gánh thuê, thợ nấu ăn... Đô thị phát triển mạnh có lẽ từ thời Trần. Từ “nhà Nho trần xì”, tầng lớp nhà Nho tài tử “ra mắt”, khá gần có Phạm Đình Hổ, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Chu Mạnh Trinh, Tản Đà, rồi hình như chấm dứt ở Nguyễn Tuân. Thị dân cần tiền nhưng không quá coi trọng nó đến mức chôn xuống đất hay làm nhà ngói cây mít như nông dân. Họ có quan niệm chất lượng cuộc sống khác, kiểu như tiêu tiền cho sướng ngũ quan, hình thành nhu cầu chân thiện mỹ. Đi hát (một nhà nghiên cứu nhận xét ca trù, nhất là hát nói, là đặc sản của thành thị), đánh cờ, phóng bút cho sang trọng, dần dần một nền văn hoá quý tộc hình thành với kiểu sống vừa phóng khoáng lại tinh tế. Tất nhiên, mỗi khi có chiến tranh hay thay đổi triều chính, dòng chảy đó lại bị đứt để rồi nối lại khi thời thế ổn định.
Trở lại thời bây giờ: Ai là người Hà Nội? Người đã đến đây từ 30 năm, hay phải từ năm bẩy đời rồi? Mươi năm nay vô số “người tỉnh” đến, đẻ con, đưa bố mẹ ra. Nhiều người “khẩu” một nơi mà “nhân” thì chắc chắn chung thân Thủ đô rồi. Muốn tìm người ở lâu nhất hoá phải ra ven đô, ngoại thành, nơi còn đình làng, nhà thờ họ, bằng khoán điền thổ. Và chính ở đây cũng lại gặp những bất ngờ khác, ví như ông Tổ của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp là tù binh Chiêm Thành. Thành phố không “thuần chủng”, đa tập người, vì thế thật khó xác định một tính cách cho dân của mình, và do đó, những giá trị, tính chất lâu bền cho mình, để mà rồi có thể dự liệu những ý tưởng, giấc mơ xa xôi khác. Và nên chăng dùng tới cái khái niệm “những người sống ở Hà Nội”?
Hình như đây cũng là một đặc điểm của nhiều nơi trong đất nước thời kỳ này. Xem truyền hình phỏng vấn nhiều người ở TP HCM, toàn thấy giọng Bắc. Tây Nguyên xa xôi, theo một con số trên tạp chí Ngok Linh, bên cạnh 1 triệu người bản địa là 3 triệu dân từ nơi khác đến; thiệt hại cho văn hoá rừng vô cùng.

Ai là thị dân?
Nhiều năm qua, chúng ta có rất nhiều chủ trương, biện pháp nhằm xây dựng một cốt cách Hà Nội trên cơ sở văn hoá, đạo đức phù hợp với lối sống hiện đại. Những cuộc vận động xây dựng gia đình văn hoá mới, nếp sống mới. Những chiến dịch giáo dục, thuyết phục trên báo đài, ở đơn vị cơ sở... Tất cả đã góp phần tạo nên một diện mạo tích cực cho Thủ đô. Nhưng cuộc sống lại vẫn đặt ra những vấn đề khác...
Ví như hồi đất nước mới thống nhất, nhiều người vào Sài Gòn ở khách sạn, đã ngạc nhiên vì một lời khuyên đơn giản: “Người thành phố nên đóng cửa ra vào”. Những nhận xét khác: người ở trỏng làm các nghề “phục vụ” rất chuyên nghiệp; lái xe không chen lời sếp, bán hàng mềm mỏng. Họ bằng lòng với công việc của mình, còn cộng đồng tôn trọng nghề của họ. Đây là một đặc điểm của đô thị, con người phân tầng, mỗi anh mỗi kĩ năng rõ rệt, không ai làm thay ai được. Tuy có lịch sử ngắn ngủi nhưng TP Hồ Chí Minh có tính chất đô thị nhiều hơn Hà Nội? Nói thế không phải không có lý. Hơn nửa thế kỷ là thuộc địa Pháp, mấy chục năm dưới ảnh hưởng Mỹ đã làm Sài Gòn gần với xã hội Âu Tây hơn. “Văn Bắc - thơ Trung - báo Nam”, chả phải là nhiều nhà báo gốc Bắc vào Nam đã “quậy” tưng bừng trong môi trường ít nhiều có ảnh hưởng của tự do báo chí đó sao?
Cách mạng nổ ra. Luôn năm chiến tranh. Những thay đổi về chính trị, xã hội, kéo theo “nhân sự lãnh đạo”... Rất nhiều yếu tố khiến cấu trúc dân cư thành phố hoán đổi, bổ sung, di dời, không bao giờ ổn định. Hai quá trình thành thị hoá nông thôn và nông thôn hoá thành thị dù ngược chiều mà đều “chảy” mạnh mẽ. Ví như anh bộ đội “bốn túi chân chì” từ Thanh Hoá ra sau ‘54 vào làm rể gia đình “tạch tạch sè”, con đẻ ra đặc “mùi” thị dân lại là nhân viên ông thủ trưởng vận complet ngậm tăm. Trong mỗi cơ quan, gia tộc, phường phố đều có sự xen kẽ, giao lưu, tranh đấu và chấp nhận nhau.
Một đặc điểm của lối sống nông thôn là chế độ gia trưởng. Một con người tồn tại trước hết thuộc về cộng đồng, làm con ông ấy bà nọ họ kia người làng nớ. Ông trưởng tộc cưu mang cháu chắt hết nhẽ, xẻ cả cửa nhà ra, là một đặc tính tốt, chứ gì? Nhưng đố đứa nào lấy vợ sai ý ông, muốn mở lối đi riêng trong khu vườn (thênh thang) để đi về, tự do đón bạn bè là không thể. Tương thân tương ái đấy, nhưng cũng thật khe khắt. Nó khiến cho sau này, lúc ra tỉnh làm nghề truyền thống, một kẻ hậu sinh muốn sáng tạo thật khó. Chả phải bỗng dưng mà một học giả Pháp nhận xét “sự hình thành trên cơ sở các làng nghề làm chậm quá trình đô thị hoá của Hà Nội”.
“Người tỉnh” lại khác. Anh thị dân tồn tại trước hết với tư cách cá thể độc lập, chịu trách nhiệm về sự lựa chọn, những hành động của mình trong khuôn khổ pháp luật. Và tất nhiên, cả những thể chế đô thị. Mình làm mình chịu, có thể không biết hàng xóm, họ mạc, anh ta chơi với người tận cuối tỉnh. Có gan ăn cắp, làm giầu, học hỏi, sáng tạo, anh ta phải có gan chịu đòn, vào tù, phá sản hay tận hưởng thành công. “Đèn nhà nào rạng nhà nấy”, “anh em kiến giả nhất phận”, anh ta thật khó trách móc người thân đã không can ngăn mình khi sa ngã, cũng không dễ chia sẻ khi hưởng lộc, vì sinh hoạt, ý thức hệ, cá tính đều rành rẽ cả. “Ta là một, là riêng, là thứ nhất”, câu ấy là của Xuân Diệu nói về đỉnh Hy Mã Lạp Sơn. Nhưng nói vui ra, vơ vào theo cách điêu xằng, cũng có thể cho đó là tâm thế tồn tại của thị dân. Trong môi trường mình được là mình, sự sáng tạo, dấn thân, năng động đều dễ dàng, không bị níu kéo, chả phải nhìn ngang liếc ngửa sợ ảnh hưởng đến muôn ngàn mối quan hệ “như ở quê”.
Như trên đã nói, vì liên tục nhập cư, Hà Nội luôn tồn tại những tập người trong lòng. Dân đã ở dăm bẩy đời dễ chấp nhận, tránh va chạm đến chịu đựng, thích làm chuyên môn, văn nghệ, hay “nhường” vị trí thủ lĩnh cho “người mới”. Phải trải quá nhiều biến động thời thế, kém thích nghi với chúng (do đã có cuộc sống ổn định), họ cũng “lười lĩnh”, “yếm thế”, ít tham vọng hơn hẳn, trong khi “người từ quê ra” tính cách mạnh, luôn có xu hướng tiếp tục chiếm lĩnh đỉnh cao. Đất học cung cấp cho kinh kỳ người tài, do sàng lọc tự nhiên mà họ lại “tụ” về một chỗ. Ví như vì đông người Nghệ mà tạp chí Văn nghệ Quân đội được “đặt” là “Văn đội quân Nghệ”, Viện Văn học thành “Viện Văn Nghệ”. Còn trong đội ngũ giảng viên đại học thì khỏi nói. “Hà Nội một triệu Nghệ nhân”, như ông nghị Nguyễn Lân Dũng phát biểu, nên chi đội bóng đá Sông Lam ra thi đấu như ở sân nhà. Người xa quê cũng hay kéo cả họ hàng, người làng ra làm “phên giậu” cho chắc chắn. “Một người làm quan cả họ được nhờ”, biến tướng của câu ấy từ cơ quan, công ty lan ra cả nước ngoài (Nga chẳng hạn), nơi những “soái” cùng “tướng” đều đồng hương trong một doanh nghiệp lẫy lừng. Dù sao, vì lợi ích chung, họ không thể co cụm, kỳ thị hoàn toàn, mà vẫn dùng người tài, chuyên gia, nhưng không ở vị trí quyết định.
Có một quan sát khác khá là “có tính chất xã hội học”: nhiều người ở chung cư sang trọng, vài ba ô sin, ô tô bim bim rồi, vẫn mong có tý đất; ấy là cái đuôi của tâm lý nông dân, không có đất tức vẫn không có gì cả.
Tiểu thị dân lại là một hình ảnh khác. Tủn mủn, dựa cậy, sột soạt sau lỗ khoá, cánh cửa văn phòng, công sở những lời sau lưng, lối a dua, dò xét, nhưng trước mặt lại rất “sĩ”. Thủ trưởng muốn nghe lời nói thẳng không dễ, và nghe được lại rất khó dễ chịu. Đồng sự nhún nhường nhau trước mặt nhưng thị phi, bất hợp tác trong công việc. Người có chút quyền hành thực thi công vụ như ban ơn, còn người đề xuất, dù hợp lý đủ đường, vẫn là kẻ đi nhờ cậy. Những quan hệ dích dắc, có khi phí tổn chả bao nhiêu nhưng đấu trí để giải quyết thì quá mệt, là một nguyên nhân làm nản lòng nhà đầu tư nghiêm túc, những ý tưởng nghiêm túc. Chập chờn tấm lưới rất vô hình, những khuôn thước chẳng thể ngờ trước con người trẻ tuổi được dạy dỗ tính độc lập, có mơ ước hào sảng. Và ai có thể “phê bình” nhau, coi là “vi phạm”, là “khuyết điểm” trước những “tính cách” như thế nhỉ?

Xác định tính chất thị dân
Vì sao ai ai cũng muốn về Hà Nội, chúng tôi sẽ bàn đến trong một bài sau. Nhưng có một điều chắc chắn là làn sóng nhập cư hàng chục năm nay không có ai kiểm soát, đặt vấn đề hạn chế hay chọn lọc. Làn sóng ấy tạo điều kiện cho người tỉnh ngoài, đa tài năng, tinh hoa cũng như cặn bã về thành phố. Bổ sung nhân lực (“thô” thì anh xe ôm, chị “ô sin”, “tinh” thì ông giảng viên đại học, nhà nghiên cứu), nó lại gây sức ép cho thành phố: thiếu trường học, bệnh viện, điện nước, nhà ở, giao thông, vệ sinh... Thử tưởng tượng trong nhà mình có thêm vài người lạ, ai cũng có hoàn cảnh buộc phải xa quê, rồi đặt vào đô thị mà xem, sẽ rất khó để quyết định buông trôi hay là hạn chế. “Nhân đạo” với tập người này thành ra lại “vô nhân đạo” với tập người kia. Hy vọng là bài toán luẩn quẩn này, đã đặt ra bao nhiêu năm, sẽ phần nào giải được khi vùng Thủ đô hình thành, những đại học, cơ quan, khu công nghiệp... được đẩy ra Hà Tây, Lương Sơn. Hy vọng là thế...
Với những đặc tính dân cư kể trên, có thể thấy đặc tính đô thị của Hà Nội còn mỏng hơn Sài Gòn, nơi mới chỉ thành đơn vị “trấn” hơn 300 năm. Nhưng dầu “người tỉnh” về nhiều thế nào, quá trình thị dân hoá cũng vẫn diễn ra ngày một nhanh hơn. Trong gia đình trung lưu có nhiều buồng riêng, bố mẹ không tự do vào buồng con. “Tôi tự hào về bố mình, nhưng trước hết tôi là tôi, với những cái hay dở riêng. Trước người lạ, khi “bị” giới thiệu thân thế ra, người ta chỉ nói chuyện với “con bố tôi” chứ không phải với “tôi”, nó không giản dị, nhiều khi gượng gạo...”, con một cán bộ lão thành bộc bạch. Đẻ ít, có điều kiện kinh tế, những cặp vợ chồng trẻ đều muốn tách khỏi gia đình lớn: “Sống tam tứ đại đồng đường rất gò bó. Mình khá hơn ông anh, muốn ăn ngon chơi khoẻ thì ngại, mà giúp đỡ nhau luôn cũng thế nào... Báo chí hay nêu gương những nhà nhiều tiểu gia đình hoà thuận, chỉ là vì họ không có điều kiện tách ra thôi”. Còn trong xã hội, vai trò chuyên gia, người có hiểu biết trong một chuyên môn sâu ngày càng quan trọng. Đã chả có người rỉ hoen trong cơ quan nọ, khi rời khỏi biên chế thời được trọng dụng ngay ra đấy ¬... Trong những ngôi nhà cao tầng mọc lên ngày càng nhiều, mỗi căn hộ là một thế giới khép kín, những người cùng tầng có con hằng chơi với nhau, gặp nhau trong thang máy đều chỉ ừ ào chiếu lệ. Nhân viên nhiều doanh nghiệp có lệ ăn trưa chung nhưng tiền trả riêng, thuốc lá không mời nhau nhưng xin thì cho. Các cụ văn nghệ cao niên uống bia quán Halida ở Lý Thường Kiệt lập nhóm KAMA, nghĩa là “Không Ai (phải) Mời Ai”. Và rồi đến lượt cỗ cưới, những bà chu đáo lo gắp cho người khác (đa phần không quen biết) lại trở thành nỗi kinh hoàng cho cả mâm. Nhà văn Hồ Anh Thái coi “động thái” gắp ấy là sự cưỡng đoạt quyền tự chọn lựa của người khác.
Nhưng sự giải phóng cá nhân giúp cho người này được độc lập, lại mang tới nỗi cô đơn cho người khác. Nhiều bố mẹ phát phiền vì con cố thủ trong buồng với máy tính và tivi riêng, chỉ có mặt bữa cơm. Ông bà muốn “tạt” sang chơi với cháu không gọi điện trước không được. Tức là sự độc lập cũng nên có chừng mực. Cứ thử đến những nhà nhiều tầng mạn Trung Hoà - Nhân Chính mà xem, có những bà cụ ở quê ra, con lo cho chả thiếu thứ gì nhưng suốt ngày ngồi bậu cửa ngóng người bắt chuyện, chả được như đám “ô sin” cứ bế trẻ xuống sân chung, gặp nhau là tha hồ “buôn”.
Có nghĩa là cộng đồng, “bầy đàn” hay cá thể cực đoan quá, đều có chỗ phát phiền!