Chủ Nhật, 7 tháng 7, 2013

Tìm hiểu : Xứ Quảng


ĐÀ NẴNG  ĐẤT & NGƯỜI
 ( Phần 1 )
                                Lê Công 
    Một vài nét chấm phá về vùng đất mà anh em mình sẽ quần tụ  ở đây vào những ngày đầu tháng 8 này. Các bạn đọc chơi cho vui.

Tiểu vùng văn hóa xứ Quảng
    Không gian văn hóa xứ Quảng, trong đó có Đà Nẵng bao gồm cả Quảng Nam và Quảng Ngãi, trải dài theo trục Bắc- Nam với chiều dài khoảng 300km và chiều ngang rất hẹp nơi rộng nhất như Quảng Nam chỉ 100km.
    Dựa lưng vào dải Trường Sơn ở phía Tây, hướng tầm nhìn ra biển cả ở phía Đông, phía Bắc giáp vơi Băc Trung bộ được ngăn cách với tiểu vùng văn hóa  xứ Huế bằng đèo Hải Vân. Ở phía Nam ngăn cách với Bình Định bằng đèo Bình Đệ. Địa hình xứ Quảng mang một sắc thái riêng biệt so với nhiều vùng miền khác trong toàn quốc, đó là sự đan xen lẫn nhau giữa đồng bằng, rừng núi và sông biển trong một không gian địa lý chật hẹp.
    Đèo Hải Vân sừng sững như một ranh giới không chỉ về địa hinh mà còn là một cột mốc của sự chuyển giao giữa khí hậu nhiệt đới chí tuyến ở phía Bắc với khí hậu á xích đạo ở phía Nam, con đèo nổi tiếng này là giới hạn của sự phân chia chế độ khí hậu của hai khu vực : gió mùa đông bắc từ phương Bắc và gió mùa tây nam ở phương Nam .
    Sự đa dạng của cac yếu tố địa hình và khí hậu mặc nhiên quyết định sự đa dạng của hệ sinh thái. Rừng núi ở đây nằm trong hệ thống nam Trường Sơn với diện tích chiếm 2/3 lãnh thổ, bao trọn mặt phía Tây xứ Quảng, nhiều khu vực rừng núi nhô ra sát biển ôm lấy cả ba mặt đồng bằng.
    Từ hệ sinh thái núi đồi và trung du này, hình thành sự đa dạng trong hoạt động sinh tồn của con người xứ Quảng : trồng lúa nước ở đồng bằng, lúa nương ở nương rẫy, trồng rừng và khai thác tài nguyên rừng. Chủ nhân của các hoạt động sản xuất này không chỉ là các tộc người thiểu số mà còn là người Kinh. Đây là một điểm khác biệt so với nhiều vùng miền khác.
Đồng bằng miền Trung cũng như xứ Quảng càng xuôi về Nam càng hẹp, sự hạn hẹp của đất đai dẫn đến những hạn chế của sản xuất nông nghiệp, bù lại nguồn nguyên liệu tự nhiên phong phú tạo điều kiện cho sự phát triển đa dạng của các ngành nghề thủ công truyền thống như chế tác đá, sản xuất mía đường, dệt lụa, đóng ghe thuyền. Người xứ Quảng từ xa xưa đã biết đã tận dụng tối đa các nguồn lợi tự nhiên để làm phong phú hơn đời sống vật chất và tinh thần của cá nhân và cộng đồng.
    Cửa sông và bờ cát ven biển tạo thành một hệ sinh thái đặc thù của người xứ  Quảng, cùng với hệ thống sông ngòi chằng chịt với mật độ cứ 20km trên tổng số 200km bờ biển lại có một cửa sông với các quy mô lớn nhỏ tùy theo địa hình. Hệ sinh thái nước lợ bao gồm các cửa sông, bãi bồi, bãi sú vẹt ngập mặn, không chỉ tạo ra nguồn tài nguyên thủy hải sản phong phú, mà còn tạo ra những vùng đất cát pha thích hợp để trồng các loại cây củ vốn là nguồn lương thực chủ yếu của các cư dân vùng núi và trung du.
    Từ điều kiện tự nhiên và những hoạt động kinh tế, những sinh hoạt văn hóa mang đặc trưng của người xứ Quảng đã từng bước định hình .

1.Văn hóa Sa Huỳnh và sự ra đời của Vương quốc cổ Chăm Pa
    Lãnh thổ của vương quốc Chăm Pa cổ trải dài theo ven biển Trung Bộ Việt Nam là những dải đất hẹp dưới chân dẫy Trường Sơn. Các con đèo nổi như Hải Vân, đèo Ngang, đèo Cả nối cao nguyên với biển, chia cắt dải đất hẹp nằm giữa núi và biển thành ba khu vực địa lý : khu vực Amaravati cổ xưa bao gồm ranh giới các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên- Huế, Quảng Nam- Đà Nẵng ; khu vực Vijaya cổ xưa ( Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên); khu vực Panduranga cổ xưa ( Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận) tương ứng với quần thể kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc mang dấu ấn văn hóa Ấn Độ như Mỹ Sơn, Đồng Dương( Quảng Nam) ; Bình Định; Nha Trang- Phan Rang( Khánh Hòa, Ninh Thuận)
    Cho đến nay giới nghiên cứu về khảo cổ học và văn hóa học bước đầu đã có sự thống nhất khi đưa ra nhận định cội nguồn của Văn hóa Chăm PaVăn hóa Sa Huỳnh ( Đức Phổ- Quảng Ngãi) có niên đại được xác định bằng phương pháp C14 cách ngày nay khoảng 4000 đến 3500 năm thuộc thuộc thời đại kim khí, những di chỉ khảo cổ thuộc loại hinh Văn hóa Sa Huỳnh trải dài trên một không gian khá rộng từ Hoành Sơn đến lưu vực sông Đồng Nai cho thấy một quá trình phát triển từ thấp đến cao mang tính thông nhât với những hiện vật văn hóa độc đáo. Chủ nhân của nền văn hóa này được xác định thuộc nhóm tộc tiền Malayo-Polynesia, trong quá trinh hình thành và phát triển có sự trao đổi và giao lưu chủ nhân của nền văn hóa hậu kỳ đá mới và sơ kỳ kim khí ở cao nguyên Lâm Đồng thuộc ngữ hệ Môn- Khmer hay tiền Nam Á. Bên cạnh đó trong sự giao lưu và tiếp biến văn hóa với các cư dân thời đại kim khí ở Đông Nam Á hải đảo và lục địa có thể xác định chủ nhân của Văn hóa Sa Huỳnh có ngôn ngữ Nam Đảo hay Malayo- Polynesia với nhiều yếu tố Nam Á. Cũng như nhiều cư dân khác ở Đông Nam Á cư dân của nền Văn hóa Sa Huỳnh cũng đã ít nhiều chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ nhưng thông qua quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa  có thể nói văn hóa Ấn Độ ở đây đã được bản địa hóa để từng bước hinh thành nền văn minh Chăm Pa với bản sắc độc đáo. Trong khi đó một nhóm cư dân Sa Huỳnh đinh cư rừng núi và trung du hay các vùng bán sơn địa đã di chuyển lên cao nguyên hầu như không chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, bảo toàn ngôn ngữ Nam Đảo là cội nguồn của người ÊĐê, GiaRai hiện nay.                                                                                                              
2.Sự hình thành những tiểu quốc đầu tiên và sự ra đời nước Lâm Ấp( TKII)
    Vào giai đoạn cuối của Văn hóa Sa Huỳnh khoảng TK I-II đầu CN,  với trình độ phát triển cao về kinh tế-xã hội, cư dân ở đây đã dứng trước ngưỡng cửa của sự ra đời nhà nuớc. Những dấu ấn đầu tiên về những bộ lạc Cau  Dừa còn lưu lai trong bi ký , truyền thuyết dân gian cho biết : bộ lạc Cau  ( (Chữ Phạn trong bi ký Kramuka Vamsa) cư trú ở phía Nam đèo Cù Mông trên địa bàn của các tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận ngày nay và bộ lạc Dừa ( Chữ Phạn trong bi ký Narikela Vamsa) cư trú ở phía Bắc đèo Cù Mông thuộc địa bàn các tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng, Quảng Ngãi và Bình Định ngày nay.
    Căn cứ trên những được ghi lại trên bia Võ Cạnh ( Vĩnh Trung- Nha Trang) (được các nhà nghiên cứu xác định có niên đại vào khoảng TK II) viết bằng chữ Phạn có nói về một triều vua có tôn hiệu Sri Maya chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Ấn Độ.Tiểu quốc Nam Chăm này có thể có tên Pan-rãn( tiếng Chăm cổ) hay Panduranga( chữ Phạn), tiểu quốc này có thể đã tồn tại độc lập và có vai trò đưa ảnh hưởng của Văn hóa Ấn Độ vào Bắc Chăm thông qua sự phổ biến chữ Phạn, tạo tiền đề cho sự sát nhập giữa Nam Chăm và Bắc Chăm sau này.
    Tuy  nhiên vài ba thế kỷ trước khi có bia Võ Cạnh , Bắc Chăm đang còn nằm dưới ách đô hộ của nhà Hán.Năm 111 TCN nhà Hàn  đánh bại Nam Việt của nhà Triệu và đặt sự cai tri trên chin quận, trong đó trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay có ba quận :Giao Chỉ ( Bắc Bộ); Cửu Chân ( Thanh- Nghệ- Tĩnh) và Nhật Nam( từ Hoành Sơn đến Quảng Nam) với năm huyện trong đó Tượng Lâm là huyện xa nhất về phía Nam, có địa bàn tương ứng các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định ngày nay, cũng là địa bàn trung tâm của Văn hóa Sa Huỳnh  nơi cư trú của bộ lạc Dừa.
    Trong suốt TK II các cuộc đấu tranh của dân chúng ở Nhật Nam và Tượng Lâm chống ách đô hộ của nhà Hán liên tục bùng nổ, đỉnh cao là vào năm 192- Sơ Bình thứ ba đời vua Hiến Đế nhà Hán , nhân lúc Trung Quốc có biến, Khu Liên đã lãnh đạo dân chúng Tượng Lâm nổi dậy và lên làm vua ( Khu Liên không phải là tên người ,có thể là sự chuyển âm từ ngôn ngữ cổ Đông Nam Á có ngĩa là Kurung có nghĩa là tộc trưởng, nhà nước đầu tiên của người Chăm đã ra đời với tên gọi Lâm Ấp, định danh nay chỉ thực sự xuất hiên trong Thủy Kinh chú- thư tịch cổ Trung Quốc vào năm 248, khi Lâm Ấp tấn công Giao Chỉ và Cửu Chân.
    Như vậy vào cuối TK II ngay tại trung tâm của Văn hóa Sa Huỳnh đã xuất hiện hình thái nhà nước đầu tiên của người Chăm, bằng các tài liệu khảo cổ có thể khẳng định người Lâm Ấp chính là những hậu duệ của chủ nhân Văn hóa Sa Huỳnh.

3. Các tên gọi của Vương quốc Chăm Pa
+ Lâm Ấp : Theo thư tịch cổ Trung Quốc từ khi ra đời (192) cho đến năm 757 Lâm Ấp là tên gọi của quốc gia cổ đại đầu tiên của người Chăm.
+ Chămpa : Tên gọi được ghi nhận từ bi ký của vua Sambhuvarman( 595-692),là tên một loài hoa- hoa Đại (tên khoa học Michelia Champaca Linnae)
Cũng là một địa danh ở đông bắc Ấn Độ, hạ lưu sông Hằng. Tên gọi Chăm Pa không có trong thư tịch cổ Trung Quốc. Các nhà nghiên cứu cho rằng có thể đây là tên mà bộ lạc Dừa tự gọi sau khi đã lập nước.
+ Hoàn Vương : Tên gọi Lâm Ấp hầu như không còn tồn tại trong thư tịch Trung Quốc từ sau năm 749 khi sứ bộ của vua Rudravarman sang TQ.
Gần mười năm sau đó theo Tân Đường thư , Hoàn Vương được xác định vào thiêời Đường Đức Tông “sau niên hiệu Trí Đức ( 756-757)” vì vậy các nhà nghiên cứu cơ bản thống nhất tên gọi Hoàn Vương  có từ năm 758.
+ Chiêm Thành : Từ niên đại 854 của bia Vikarantavarman III ở Po Nagar, về sau  không còn tư liệu về Hoàn Vương cũng như Chăm Pa. Các bia ký mới chỉ xuất hiện vào năm 875 ở Indrapura ( khu vực Đồng Dương- Quảng Nam). Năm 877 Tân Đường thư- thư tịch TQ lại có những ghi chép về Chăm Pa với tên gọi mới Chiêm Thành, tên gọi này được phiên âm Hán-Việt từ Campapura ( Thành Chăm pa) đã có trong bia ký Mỹ Sơn năm 629.
    Những tên gọi khác nhau trong thư tịch cổ TQ và Việt Nam có thể sẽ phản ánh một nội dung quan trọng nào đó trong lịch sử vương quốc Chăm Pa, nhưng cho đến nay các nhà nghiên cứu vẫ n chưa có những tài liệu mà họ cần phải có xung quanh vấn đề này. Nhưng trong thời kỳ này với những tài liệu như bia ký ở Mỹ Sơn thế kỷ VII cho biết về một tiểu quốc ở phía Bắc có tên là Campapura cùng với Vương triều Indrapura , như vậy lịch sử vương quốc Chăm Pa từ đây cho đến khi suy vong ( 1471), khởi đầu từ vương triều Indrapura cho thấy lịch sử Vương triều Chăm Pa thực chất được xây dựng từ liên kết của các tiểu quốc và vị trí và vai trò bá quyền sẽ thuộc về những tiểu quốc hùng mạnh. Lịch sử Chăm Pa thời kỳ Vương triều Indrapura là những câu chuyện về sự phát triển hùng mạnh, khẳng định quyền lực của một tiểu quốc ở phía Bắc.
                                              ( Hết phần I)

                       

6 nhận xét:

  1. LC:xem thế này thì "Chăm Pa" với "Dừa", hai cái tên khó nối với nhau nhỉ

    Mà văn hóa Hán có ảnh hưởng nhiều đến vùng này ko?

    Trả lờiXóa
  2. Cháu chả hỉu về NIÊN ĐẠI, chỉ suy luận nhà quê như vầy: khi "Văn hóa Sa Huỳnh" đang mải nặn các Chum đất sét thì "Văn hóa Đông Sơn" đã chế tác Kim Loại (Trống đồng), cộng thêm yếu tố "đẻ nhìu" và "dư thóc gạo" nên mình mạnh hơn và mần thịt họ lun.

    Trả lờiXóa
  3. đọc bài này thấy đúng là bài của một nhà nghiên cứu.Cám ơn Lê Công

    Trả lờiXóa
  4. Lê Công ơi , ông viết và đại lược cho anh em nhờ ,chứ viết kiểu" bác học" quá ,dài dằng dặc đọc ngạilắm .Muốn biết về xứ Quãng cũng chịu .Già cả rồi ?

    Trả lờiXóa
  5. Lê Công ơi: Xứ Quảng ở đây là 5 Quảng hay chỉ là Quảng Nam - Đà Nẵng thôi ? Thật sự tôi muốn rõ chỗ này. Xin được hồi âm nhé.

    Trả lờiXóa
  6. Nếu mình nhớ ko nhầm, thời Nguyễn đặt Ngũ Quảng, là Bình, Trị, Nam, Đức, Ngãi. 4 anh kia biết rồi, còn Quảng Đức ở vị trí nào ko biết
    Miền Nam trước 75 có tỉnh Quảng Đức, đâu trên Tây Nguyên. Có thể thế...

    Trả lờiXóa

Mời bạn cho nhận xét đối với bài đăng này.
Nhận xét của bạn là sự đóng góp hữu ích cho thành công của trang tin BanTroiKhoa3.