Thứ Sáu, 28 tháng 12, 2007
TC
ĐI THĂM LÀO
Khách sạn Lanexang trông ra con đường chạy dọc sông Mê – kông, biên giới tự nhiên giữa Lào và Thái Lan. Gần đấy có cái quán nhỏ, những thức nướng bình dân. Tôi nhẩn nha ngồi, chọn một quả chuối đã xem xém trên bếp than hoa, nhẩn nha ngắm. Có lẽ vậy là phải. Quang cảnh xung quanh yên bình đến đỗi ta không thể sống vội vã, để mà chẳng cảm nhận được cái gì...
Trước mặt, là những làn xe trôi tăm tắp, rất nhiều “túc túc” và bán tải. Người Lào có kiểu đi xe từ tốn lắm: không bóp còi nếu không có lý do to tát. Gặp chỗ phải quành, họ dừng lại chờ, đến khi hết làn xe bên kia mới lượn, không chồm ra từng chục xăng ti mét để rồi tắc dí dị như ta; tốc độ lưu thông nhờ thế mà nhanh hơn. Xe máy ít, có lẽ chỉ bằng lượng ô tô, xe tay ga phân khối lớn càng ít, xe đạp gần như không có. Cảnh sát giao thông không mấy khi gặp, thường chỉ phải làm việc căng gần một tiếng buổi sáng, giờ cao điểm. Trung bình mỗi tuần có 14 tai nạn giao thông, bốn ngày một người chết vì tai nạn giao thông, rủi ro vào loại thấp trong khối ASEAN, đứng sau Phnôm Pênh, Răng Gun. Những đàn bà duyên dáng trong bộ váy áo lấp lánh kim tuyến. Những nhà sư khất thực thong dong, ai muốn cho quả bí, nắm cơm phải quỳ xuống mà dâng. Vào giờ tan học, những bé gái ùa ra làm sáng cả đường. Tất cả đều mặc váy, một quy định. Váy là một thứ đặc sản, phụ nữ vào chùa, đến công sở, đi lễ hội đều bận. Em Kẹo Sỏn ở báo Viêngchăn Mài (Viêng Chăn mới) bảo có tới năm chục bộ váy áo. Thanh niên có diện quần bò, nhưng cũng rất ít tóc nhuộm, và không hề có hoa tai khuyên mũi. Nhớ hôm theo Hải, phóng viên Việt Nam Thông tấn xã - vào một sàn nhẩy đêm, cũng ầm ĩ điệu “suynh” chát chúa, nhưng múa lại chậm, một thứ lăm vông biến thể.
Mấy ngày ở Viêng Chăn, tôi chả có thì giờ mò đến khu dân cư bình dân, những căn phố tồi tàn - đô thị nào mà chả có thứ đấy. Nhưng bằng vào phần bao quanh Hoàng cung, dọc sông Mê kông, thì thấy đấy là một thành phố có quy hoạch rõ ràng. Nối vào đại lộ Luôngprabăng là đại lộ Lane Xang thẳng tắp, to rộng, một thứ “Săng Ê - li – dê”, giống thủ đô Pháp chăng? Đứng trên đài Chiến thắng sừng sững (xây năm 1962) nhìn ra tứ phía đều thấy được đầu mút những con đường châu vào đây.
Viêng Chăn là một thành phố Mở. Thủ đô nằm ngay đường biên, không chắc chắn về phòng thủ, thì thân thiện phải là đặc tính đương nhiên rồi. Rộng gần 4000 km2, hơn Hà Nội nhiều, thành phố tha hồ thoáng đãng vì chỉ có hơn 70 vạn dân. Dù trời nóng, nhiều muỗi, mà khách du lịch đủ loại đến vẫn đổ xô đến, mỗi năm tới 80 vạn lượt người. Pha trộn trong khu trung tâm đủ loại “rét tô răng” Thái, ấn, Việt, Pháp, cơm chay, ăn nhanh, các món nướng món chấm cay xè, xôi, lạp... đặc trưng Lào. Đô trưởng Sinlavong Khoutphaythoune nói sức sống Thủ đô là thanh bình, xanh, sạch, sáng, hấp dẫn, duyên dáng, văn minh. Hiển nhiên, với định hướng ấy, truyền thống phải là cái giữ được, để mà đem ra phô với bạn bè, để họ thấy sắc thái Lào có khác với người Thái bên kia sông. Nhà cửa không cần cao tầng, cứ thấp thoáng dưới bóng đa đề me xoài, và dù kiến trúc hiện đại là mấy, phần mái, các chi tiết đều cài điểm những đường cong, hoạ tiết Lào. Chính quyền rất chú ý giữ hình thái bên sông cho thành phố. Nên dẫu còn tới 8 cây số đường ven Mê Kông còn phải giải toả nhà cửa, hàng quán, Viêng Chăn vẫn cứ thoáng rộng, không như Hà Nội, con sông Hồng đã bị chôn sống rồi.
Viêng Chăn còn là thành phố mở về sắc tộc. Trong hơn 70 vạn dân, tới 20 vạn là người Thái, Việt, Miên, Xinh, ấn... Phan Đăng Viên, người Hà Nội, bỏ ngành điện lực ở bản quán sang thuê 2000 mét đất mở hàng ăn “Bếp Việt”, với cá kho, lòng lợn, đậu phụ mắm tôm, bảo đất này dễ làm ăn, không chen chúc xô bồ. Người Lào hiền hậu, bàn bên nói to đứng lên bỏ đi, xe khách hàng xóm cho đỗ trước cửa nhà mình. Quả có thế. Những phụ nữ sao mà ân cần, nhỏ nhẹ, giọng ngân nga khó bắt chiếc, lúc nào cũng dành cho khách nụ cười, câu chào “xăm pai đi” êm ái.
Tôi đi xem Thạt Luổng – có tượng ông vua dời đô từ núi cao về đồng bằng cách nay gần 450 năm, đài Chiến thắng, vườn Phật, bảo tàng Quốc gia..., những biểu tượng của Viêng Chăn. Chùa chiền, kiến trúc, tác phẩm điêu khắc nhiều và độc đáo vô kể, tạo nên một bản sắc không thể trộn lẫn. Và lên cố đô Luongprabang thăm tháp Kuangsi, hoàng cung. Rồi một nhận xét rất chủ quan bật ra: bạn có những thứ ta không có (đương nhiên), lại giữ được những thứ ta đã có mà nay không còn. Người Lào, được giáo dưỡng trong ánh sáng thuần khiết của tôn giáo, văn hoá truyền thống, thể hiện cái thiện căn của con người thật sâu sắc qua nhời ăn tiếng nói, câu chào, nụ cười. Không nghiêm khắc, căng cứng đến cực đoan, họ cứ bình thản, nhỏ nhẹ mà tồn tại, giữ được mình trong trào lưu hội nhập.
Đó là những gì đáng làm ta phải ngước lên chứ!
Hoàng Định
1029
Thứ Năm, 27 tháng 12, 2007
Đi "phượt"
Ghi chép của một “phượt” thường giầu chất tự sự, kể, tả, “hồi kí” xen lẫn những quan sát, so sánh...
27/11/’07
Đang là mùa khô. Thị xã Hà Giang không bụi bậm mấy, hẳn là vì được dòng sông Lô. Đường vào có trạm rửa xe, nhưng là với ô tô thôi, dù hai chiếc future của “đoàn” mình cũng đáng phải tắm lắm. Đây là vùng đất khá phẳng, hẹp, xưa chắc chỉ đóng đồn quan binh và quan trị quan nhậm, có vài bản Tày xung quanh. Giờ thì chả còn mấy màu sắc dân tộc. Người Kinh, đa phần Phú Thọ, Tuyên Quang, Yên Bái... buôn bán, “làm cán bộ” và dịch vụ. Đi tìm hàng internet rất khó, chỉ có chỗ chơi điện tử. Nhưng đêm xuống có cháo ấu tầu, bà chủ đưa xem củ ấu tầu rồi nhất định đòi lại “vì nó độc”. Bảo tàng độc đáo, màu sắc Mông, Lô Lô, Giấy sặc sỡ. Chợ không nhiều thổ sản. Hàng Trung Quốc tỉnh khác sang là chính, chứ không phải từ cửa khẩu Thanh Thuỷ gần đấy.
Chán, là cái hình thái tựa vào núi vẫn còn, nhưng bao quanh sông Lô thì hầu như đã hết. Bờ tây, trừ chỗ quảng trường 26 tháng 3 có tượng Bác Hồ với đồng bào các dân tộc còn trông thấy bờ, những nơi khác bị bít lại cả. Bờ đông tệ hơn, nhà bê tông chổng đít ra sông, dĩ nhiên chất thải cũng tống theo.
Hà Nội cũng “nhốt” sông Hồng. Viêng Chăn, nghe bảo chính quyền muốn giải toả nhà cửa 8 km dọc sông Mê - kông, để giữ hình thái sông nước cho thành phố.
Quên là phải giới thiệu “đoàn”. Mình lớn nhất, 25, công chức, thỉnh thoảng viết nên xin được cái giấy giới thiệu là cộng tác viên báo chí, tập karate, cận thị, đẹp trai. Minh, 23, mới ra trường coi như còn bú tý. Và Tuyết Quỳnh, 24, làm cho liên doanh, tiếng Anh rất giỏi. Mới đi “phượt” một lần với nhau, nửa đêm mò vào chỗ kinh tuyến A. giao nhau với vĩ tuyến B. trong rừng Quảng Trị, nhưng đông người. Lần này không cần la bàn nhưng khư khư bản đồ, sách tra cứu du lịch, vì cổng thông tin điện tử của Hà Giang nghèo nàn. Xe mình chở đồ, Minh đèo Quỳnh. Nhà nghỉ 150 nghìn một đêm, cứ nghía ba anh em thuê chung phòng. Được cái có thể coi Quỳnh như con trai, có khi còn quá con trai.
2 “con” future ngon. Đi chơi mùa khô không sợ sạt đường.
Ông Hùng Đình Quý, trước làm giám đốc văn hoá thông tin rồi hội văn nghệ tỉnh, bảo người Mông có gốc Trung Cận Đông, di sang Xi – bê – ri, khi dời xuống Trung Quốc thì lập nước Tam Miêu, nhưng bị người Hán kì thị bèn nam đào. Từ đó cứ đến chỗ nào có dấu chân người là đi tiếp, thành ra cứ leo lên cao mãi, ở chỗ không có nước. Hà Giang có “quốc gia đá” tức bốn huyện Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc toàn người Mông là thế.
Đêm ngủ yên. Quỳnh bảo uống thuốc hãm kinh.
28/11
Huyện lỵ Hoàng Su Phì (cây vỏ vàng) là thị trấn Vinh Quang (sao không có tên dân tộc nhỉ?). Đường từ ngã ba Tân Quang vào quãng sáu bẩy chục cây, có người đếm được 1009 khúc cua. Lên xuống liên tục, đèo Pha Đin còn gọi là “cụ”, mệt nhất là không có gương lồi, xe sầm sầm đâm vào mặt. Mình cứ lo cái lưng, ngã hồi leo Phansipan, nhưng không thấy gì. Hai tên kia khoẻ re. Hoàng Su Phì có suối nước nóng, giá mà được tắm. Đi tiểu, cành trà có hoa sớm níu lại.
Leo tiếp lên Xín Mần đường vẫn thế. Đứng trên cao nhìn xuống ruộng bậc thang chỉ có rạ xơ xác, hình dung đến mùa gặt, quang cảnh sẽ lộng lẫy lắm, đủ sức vẫy gọi những tay máy phương xa. Đám hồng hồng rất dễ thương là tam giác mạch đang nở hoa, hạt chín thì xay làm bánh, nấu rượu. Rừng cây kim an, giống Trung Quốc, có lẽ tựa bạch đàn, thứ cây rất hại đất. Những đàn bà tay không bao giờ nghỉ, chả xe lanh thì thêu, ngồi thêu, đứng thêu, nghiêng nghiêng dựa cột cũng thêu. Phụ nữ Mông đái đứng, không có “săm” trong chiếc váy phấp phới, còn đàn ông quần rộng quấn cạp, thành thử đái ngồi; nghe nói thế chứ đã chớp được pha nào...
Huyện Xín Mần đóng ở Cốc Pài, qua cầu treo sông Chảy, có nghĩa đây là đầu nguồn nước cho thuỷ điện Thác Bà. Cà phê Hồi Loan đầu huyện có mùi “hàng họ”. Chợ bán ấu tẩu, hạt dổi làm thức chấm, củ, hoa, rễ tam thất, đá lửa, bật lửa xăng, đèn pin tàu. Quỳnh lạc ngay vào hàng thổ cẩm, mình đàn ông còn thấy quá đẹp. Xín Mần xa tỉnh nhưng có cơ phát về du lịch hơn Hoàng Su Phì, vì đường nối sang cả Bắc Hà Lào Cai được. Tây đi hoang trên xe Minsk khá nhiều. Khu trung tâm nhộn nhịp, nhưng ngay xã Cốc Pài còn ba thôn chưa có điện, vì đường “leo” cho cột khó quá.
Trạm 5 biên phòng ở độ cao 1990 mét, anh trung uý má hồng Quỳnh phải ghen. Trình giấy, trò chuyện, ngắm cái cổng đá còn chữ nho, và cây cột mốc cả chữ Pháp. Bên kia là chợ to, ngày phiên dân hai bên họp cả vài nghìn người, đường bê tông to uỵch, rãnh thoát nước rất chỉnh. Coi như được xuất ngoại, tử vi mình chắc có thế?
29/11
Lơ vơ vào trường phổ thông nội trú. Hiếm khách, nên các thầy cô, đa phần ngoài hai mươi, chuyện ríu ran. Thịt lợn, rau đắt. Kêu là xã vùng hai, lại mới cắt khoản hỗ trợ nên mới ra trường chưa được 2 triệu.
Lại lên với xuống, cua hết phải rồi trái. Minh đã học lái bằng hông. Mới hay rằng người Nùng ở rất cao, trên cả người Dao, chỉ dưới người Mông. Nhà cũng chình tường nhưng bên trong bằng gỗ, thường có gác. Chình tường là ghép ván hai bên, cho đất vào giữa rồi nện, bỏ ván ra còn thấy vệt, ở được dăm bẩy chục năm.
Ăn cơm chợ Hà Giang, nghe được câu “Trung ương xuống tỉnh - tỉnh đãi, tỉnh xuống huyện - huyện tiếp, huyện xuống xã - xã đãi. Nhưng xã lên huyện thì “mày đi đâu?”. Một câu khác, huyện hỏi xã lên họp: “Sao mày không đi xe huyện đón? - Đi thì mai mới đến! – Thế ô tô huyện đâu? - Đang uống nước dưới suối!”.
Trở về nhà nghỉ. Ngủ không vẫy tai sướng ơi là sướng. Tỉnh có khác.
30/11
Chợ Minh Tân huyện Vị Xuyên 8 ngày một phiên. Cổng vào có hàng điện tử, nhạc Trịnh inh ỏi. Nhưng bên trong thật độc đáo. Váy áo ríu ran bên hàng sáp nẻ, gương, xà tích. Đàn ông ưa áo bò nhiều khuy, thắt lưng chi chít đinh. Chó con sắp “đi ở”, ngồi trong rọ tre, “ánh” mắt rất khó tả, vừa ngộ nghĩnh vừa tồi tội. Bà già Tày bảo phải bán, nhà không nuôi được chó mực, rồi sẽ mua con vàng.
Minh xà vào đám lăn xúc xắc gỗ đầu chợ, quan sát một lúc rồi chơi, được liên tiếp, cho lại lão chủ. “Chú mày đúng là dân cờ bạc chuyên nghiệp”, mình bảo. “Anh chả biết gì cả, cái thằng nộp tiền liên tục là “mồi” đấy”.
Men sông Tráng Kìm là vào “quốc gia đá”. Dù đường không ngoằn ngoèo như hôm Xín Mần nhưng cảnh vật quá dữ dội. Núi cứ dựng ngược. Đá đâm lên trời nhọn hoắt. Đang khô hạn, chỉ thấy xám một màu, chắc mưa xuống sẽ xanh hơn. Những nấm thân ngô nằm ỉ ôi như bù nhìn, đợi đến ngày ngún khói xấy khô dây thịt trên bếp. Con trâu không sống được ở đây. Người ta trèo lên cao, lấy đá chất thành bờ từng khoảnh bằng cái mùi xoa, rồi địu đất lên, đợi mưa tra hạt ngô xuống, làm ra những mèn mén với rượu men lá. Tắm rửa là chuyện xa xỉ, thành thử váy đàn bà, đẹp là thế, cứ đập đập rồi phơi bờ rào, có nhẽ muốn tra tấn thằng nào cứ đem chụp lên đầu nó là ổn.
Phim “Cao nguyên đá”, ông Lê Mạnh Thích làm đã kinh, nhưng tận mắt rồi thì thấy chưa là gì. Đá đen đâm phộc trời xanh, không thể tả nổi.
Quản Bạ, Yên Minh đóng huyện trên vùng đất khá phẳng phiu, nhưng khoan xuống nghìn mét chưa có nước. Uống sữa cô gái Hà Lan ở ngã ba. Bà người Tày bảo đi ăn cưới, mừng những một trăm. Rồi Cổng trời, đồi Vú cô tiên. Thủ tướng mới lên cho “quốc gia đá” 30 bể nước, mỗi cái tới ba tỷ đồng. Khát! Cả nghìn năm còn khát, dù điện đường trường trạm khá đủ.
Cách Đồng Văn mươi cây, nhà Vương hiện ra đột ngột. Quá đẹp! Tường cao chỉ đá xếp mà vững chắc. Lợp ngói âm dương, có bể hứng nước từ mái. Được hàng sa mộc trăm tuổi che chắn, dinh thự ông vua xứ Mèo vẫn có vẻ mỏng manh khi cần phòng thủ. Nhưng chắc phải có thầy chọn chứ?
Phố huyện đang trưa hai ba đám ngã vì say. Thấy bảo cán bộ giờ đi xã không “căng hải” nữa, mà xe máy, ngày ngày họp hành tiếp khách quần quật nên gút nhiều. Đáng kể nhất là khu chợ cũ, ba dẫy 15 gian xếp thành chữ U, hàng bếp xây đá để bắc chảo thắng cố ngày phiên. Những cột đá hai người ôm đỡ mái lợp ngói âm dương, thợ Tứ Xuyên Trung Quốc làm. Và dãy nhà cổ trong bản Nghiến - đang làm hồ sơ di tích lên UNESCO. Người Tày ở đây có họ Nguyễn, hỏi cụ Dục, ra ông tổ là gốc Thanh Hoá tha phương. Một quá trình pha tinh huyết vào những đàn bà Tày, giờ máu Kinh chỉ còn mấy phần.
1/12
Ai lên Hà Giang chưa đến chỗ cực bắc đất nước coi như chưa lên. Phi lên từ tinh mơ. Đồn Lũng Cú có gốc đào sớm điểm hoa, đến tháng năm quả trĩu phải chống cành, sáng ra nhặt mấy xô đổ đi. Nhiệm vụ biên phòng, ngoài tuần tra biên giới là nắm dân, chữa bệnh, tuyên truyền giữ rừng, đẻ ít..., và quan hệ với bên kia. Có người đóng lâu, khi về hưu chưa một lần đưa con đi khai giảng, vì cữ Quốc khánh là phải bám đồn.
Cột cờ cực Bắc lộng gió. Lá cờ 54 mét vuông, rộng hơn lòng nhà mình – trông bé tý. Phần phật, mươi ngày thay một lần. Và cây cột to hơn thân điếu ục, đã có lúc phải bị vặn. Hình dung lúc thay cờ, ba chiến sĩ đánh vật. Bản Lô Lô bên dưới vọng lên tiếng gà chó. Ngày xưa, khi trống đồng rền rĩ báo phỉ sang, biên cương náo động thế nào?
Chợ Ma Lé tiêu cả nhân dân tệ. Váy Mông 100 nghìn đồng, dĩ nhiên có ni lông và không khâu tay. Thắng cố “đồng bào” 20 – 30 nghìn đồng một bát. Rượu ngô 5000 đồng chai 65. Không có thắng cố “cán bộ”. Có anh say ngủ trên xe uyn ngay bờ vực, gọi là “ngất trên cành quất”.
2/12
Sang đến Mèo Vạc, còn kinh vì vượt đường Hạnh Phúc chiều qua quá muộn. Mã Pì Lèng (dốc ngựa quỳ) thăm thẳm, dưới chân vực là sông Nho Quế xanh lè. Chụp ảnh ở bia kỉ niệm hàng vạn dân công treo người làm đường. Vẫy theo xe du lịch chở toàn tây già đầm xệ.
Chợ Mèo Vạc thật là đặc sản về màu sắc dân gian, có lẽ đặc sắc nhất với người mê chợ như mình. Chợ vùng cao là cái hội. Từ sáng sớm, sắc Mông, Lô Lô, Nùng, Dao đã tràn ngập thị trấn. Đàn ông dắt bò, dê, ngựa, chó, ôm gà, vác mía. Đàn bà vào sân cơ quan (vắng vẻ vào chủ nhật) vén tóc, vuốt khăn, quên gương thì soi nhờ hàng xà tích, vòng bạc. Khoảnh đất bằng cái sân bóng đá phía sau nồng mùi nước đái bò. Cả nghìn con được, giá từ một đến chục triệu, đực đắt hơn cái. Lợn giống rất đắt, mỡ lá càng đắt. Vịt ngan không có; lấy đâu ra nước! Toàn đàn ông đứng đong đưa. Bán được giá rồi vào hàng ăn, có nhẽ không có vợ chả anh nào về được đến nhà. Phía trong phập phồng mái ni lông, bên dưới tràn trụa rượu ngô nghìn một bát. Chảo thắng cố khổng lồ sôi sục, bên trong lòng phèo ruột rà nhào lộn tíu tít. Những tảng thịt luộc, cỗ lòng, lá gan bốc hơi mù mịt. Các thức nhắm ấy thể nào cũng phải kèm vào xôi trắng, xôi nếp cẩm. Mèn mén không thể thiếu, mang sẵn đỡ tiền lại no inh ích. Ngôi chợ xây chèn chặt người, là thiên đường của váy áo vải vóc, đồ trang sức. Rồi cát xét, thắt lưng đầy đinh, đa phần đồ tàu. Ai cũng đeo quẩy tấu nên di chuyển rất khó, cứ chầm chậm từng bước theo dòng. Hơi người nồng nồng, nằng nặng bốc lên quánh đặc trên nóc.
Sân bóng đá đã có người say. Hỏi chuyện một cô bé, biết đi từ 2 giờ sáng, 7 giờ đến nơi, hai đứa trẻ, một bốn, một năm tuổi tha thẩn bên cạnh là con. Chả biết có nên tiếc là không có thắng cố “cán bộ” để nếm...
Quá trưa sang chiều, nếu tỉnh được thì về. Rời bỏ con đường phủ nhựa của thị trấn, họ rẽ sang đường đất, bám vào đá ngàn leo lên những đường con dốc ngược . Cắm cúi, thũng thẵng, đến tối mịt, chỉ còn lối đi có cứt dê lẫn trong bụi chó đẻ, là gần tới nhà rồi...
Hoàng Định
2512 TRẦN TRƯỜNG CHIẾN
Thứ Tư, 26 tháng 12, 2007
Cưới con gái Minh Chính.
(làm tiến sỹ ở Nga nên đồng ngôn ngữ với bố vợ)
Đ Hiền còn vui hơn cả bố cô dâu hôm nay...
Thứ Hai, 24 tháng 12, 2007
Ký sự video : Quế lâm ngày trở lại (tiếp theo)
Thứ Năm, 20 tháng 12, 2007
THƯ GIÃN
Ở một địa phương XYZ mở một cuộc thi tìm hiểu về phụ nữ để khuấy động phong trào của phụ nữ địa phương .Có một chị có tuổi đăng ký tham gia cuộc thi với ý đồ là học hỏi thêm những người khác đồng thời cũng truyền thụ lại kiến thức của mình cho lớp trẻ. Vì vậy chị đưa cả con gái đang ở lứa tuổi thanh niên đi theo để mở mang kiến thức cho con mình. vào cuộc thi chị được gọi lên để trả lời câu hỏi .
Ban giám khaỏ hỏi ;
Câu thứ nhất : đối với phụ nữ cơ quan nào là cơ quan quan trọng nhất
Chị ngần ngừ một chút rồi nói : điều này rất dễ tất cả mọi người phụ nữ đều biết nhưng vì lý do tế nhị tôi xin trả lời riêng cho ban giám khảo .Nói xong chi ghé vào tai vào tai ban giám khảo trả lơi .Con gái của chị ngồi dưới nhìn thấy nét mặt ban giám có vẻ chưa hài lòng liền giơ tay :"cháu xin trả lời thay cho mẹ cháu - Cơ quan quan trọng nhất của phụ nữ là Hội liên hiệp phụ nữ ạ "
Giám khảo tuyên bố :"Đúng cháu đươc 10 điểm"
Câu thứ hai giám khảo hỏi : Đối với phụ nữ tóc ở vùng nào xoăn nhất
Mặt chi phụ hơi ửng hông quay về phía giám khảo nói : câu này tôi lại xin trả lời riêng cho giám khảo .Vùa nói xong thì con gái của chi lại giơ tay :"Cháu xin trả lời thay - tóc của phụ nữ vùng Phi
châu là xoăn nhất"
Giam khảo lai tuyên bố :"Cháu nói đúng ,cháu đươc 10 điểm nữa "
Câu thứ 3 ban giám khảo trịnh trong tuyên bố :"Câu này là câu cuối cùng cũng là câu có điểm cao nhât 30 điểm -Phụ nữ thích cầm cái gì của chồng mình nhất"
Chị phụ nữ lúc naỳ đỏ mặt lúng túng định trả lời thì con gái chị quên cả giơ tay đứng bật giạy :"câu này quá dễ cháu đã tân mắt chứng kiến , phụ nữ như mẹ cháu thì thích nhất là cầm ...ví của bố cháu "
Ban giám khảo đứng lên vỗ tay và tuyên bố :"cháu trả lời đúng cháu đạt điểm tuyệt đối "
Ký sự video : Quế lâm ngày trở lại (tiếp theo)
Thứ Tư, 19 tháng 12, 2007
Ký sự video : Quế lâm ngày trở lại.
Ngày đầu tiên đến QL: Từ Nam Ninh đi xe tốc hành đến Quế Lâm. Đường cao tốc, trạm nghỉ trên đường. Đến bến xe QL, mọi người chờ chị Niệm tới đón. Nhận phòng tại KS rồi đi ăn tối ở tiệm Thịt Dê ngay cạnh KS. Buổi tối thăm chợ đêm (phố đi bộ) gặp các bạn khóa khác ở đây. Đoàn Phi Hùng đến chơi tại phòng Cảnh Nghĩa - Doãn Thịnh - Quốc Hùng.
Ngày thứ 2 , buổi sáng. Sau khi ăn sáng tại một tiệm mỳ, cả hội được Việt Hoa đón đi dự lễ kỷ niệm 70 năm trường Y Trung. Sự kiện này chính là lý do để các Bạn Trỗi gặp mặt nhau ở Quế Lâm. Có 2 Clips cho sự kiện này, một video và 1 Slides Show.
Bài này tạm dừng tại đây. Có vẻ như không thể post quá 3 video clips lên một bài. Video clips "Hội trường Y Trung 70 năm" được chuyển qua bài sau.
Thứ Ba, 18 tháng 12, 2007
TẢN MẠN SAU CHUYẾN ĐI ( tiếp theo 3 )
3/ QUẾ LÂM NGÀY GẶP LẠI
Lại nói về chị Niệm, chị đến đón chúng tôi chậm khoảng 1 tiếng kể từ khi chúng tôi xuống xe. Nguyên nhân là do chị bận quá nhiều việc chuẩn bị cho các đoàn VN sang. Đúng là có thổ dân vẫn hơn, chị thuê cho chúng tôi khách sạn ngay tại trung tâm với gía không cao lắm. Khách sạn mang tên Hoa Thuận, ở ngay góc đường Đông Phương Mỹ Lộ, lớn nhất Quế Lâm, chếch góc bên kia đường là Bách hoá Đại lầu, đoạn đường này hàng đêm dành một nửa sát với khách sạn làm chợ đêm. Sau khi nhận phòng và tắm rửa, chị Niệm đưa chúng tôi sang nhà hàng lẩu dê sát ngay bên hông khách sạn. Hôm nay trưởng đoàn Nguyễn Thắng cho cả đoàn uống rượu “Ông lão Quế Lâm”, rượu khá ngon nên sau khi hết một chai cả đoàn biểu quyết uống thêm một chai nữa. Thức ăn hôm nay có món cá đặc sản Quế lâm và món dê núi cũng đặc sản luôn. Hoàng Sơn nhất quyết đòi cho được món chao Quế Lâm, món thức ăn đã gắn liền với tuổi trẻ của chúng tôi cách đây 40 năm. Chao Quế Lâm, mặc dù trông bề ngoài không đẹp bằng các loại chao công nghiệp khác, nhưng quả là rất ngon nên sau khi ăn xong, còn thừa nửa lọ, Hoàng Sơn thủ ngay về để dành cho các bữa sau. Trong bữa ăn các câu chuyện đều xoay quanh những ký ức và kỷ niệm về những ngày thơ ấu ngày xưa. Có lẽ những ký ức của Quốc Tấn là ấn tượng nhất vì hồi đó thuộc thành phần cá biệt, thế mà bây giờ là đại tá Quân đội Nhân dân, rất chững chạc nhưng cũng rất quậy như những ngày xưa.
Ăn tối xong mọi người đi chơi chợ đêm. Chợ đêm bán rất nhiều thứ đồ lưu niệm, nhiều thứ khá bắt mắt. Có lẽ trong bài viết này không thể mô tả được. Tuy nhiên có một vài thứ rất ấn tượng như bộ đồ dùng của Hồng vệ binh, gồm huy hiệu bác Mao, mũ vải tô châu, túi dết, băng hồng vệ binh; các tranh thuỷ mặc vẽ về Quế Lâm; các loại triện tên bằng đá ... ôi nhiều thứ lắm. Trước khi đi Nguyễn Thắng dặn đừng mua gì nhiều, để dành về Thâm Quyến và Quảng Châu mua, vì vậy tôi chủ yếu đi ngó chứ không mua một thứ gì, sợ rằng vừa vác nặng vừa chưa hẳn đã là thứ hay nhất, rẻ nhất. Sau này cũng thấy hơi tiếc vì có nhiều thứ muốn mua chỉ thấy ở chợ đêm Quế Lâm.
Vừa đi được một đoạn trong chợ chúng tôi gặp lại Dương Đức Hải khoá 8 và các bạn các khoá 5, 7, 8 và C11 trong đoàn của Thầy Chi Phan và Kiến Quốc, đoàn “cao cấp” của chuyến gặp gỡ này. Thế là tay bắt mặt mừng, chụp ảnh, quay phim loạn xạ. Đi được đoạn nữa gặp luôn tốp thứ 2 của khoá 3 gồm Phi Hùng, Trung địa chủ, Đồng tiến, Cao Long Tỉnh, Trần Đào Hà Đông và con trai của Tỉnh đã học ở Trung Quốc, đi làm Phiên dịch cho bố.
Như vậy là vào tối 25 tháng 10 năm 2007, toàn bộ 4 tốp với tổng số gần 100 cựu thầy trò trường Trỗi đã hội quân đầy đủ ở Quế Lâm; không phải tất cả, nhưng dại diện của 4 tốp đã gặp nhau tại chợ đêm Quế Lâm, không khí gặp gỡ thật sôi nổi và vui vẻ, đây quả là một cuộc gặp gỡ hiếm có trên đời.
Sau khi đi xem hết chợ đêm tất cả khoá 3 ( những người đi Quế Lâm trong dịp này ) đã kéo nhau lên phòng của Thịnh – Hùng tộ - Cảnh Nghĩa. Mọi người đều vui vẻ hồ hởi, các câu thoại trêu chọc nhau làm náo động cả phòng, nhiều lúc tranh nhau nói nên chẳng có ai nghe cả, vui ơi là vui. Nói chuyện một lúc, đoàn của Phi Hùng chia tay về khách sạn của mình, hẹn gặp lại sáng mai tại trường Y Trung.
Nửa đêm hôm ấy toán của chúng tôi kết nạp thêm 3 thành viên, hai cô con gái của Thịnh là Hiền và Liên, ngoài ra còn có thêm một cậu bạn trai là Hưng tháp tùng. Các cháu học ở tận Vũ Hán, đi xe suốt đêm để đến gặp bố thật là cảm động.
Sáng 26/12, đoàn chúng tôi chia làm hai tốp, một tốp gồm Thuỷ vợ và Xuân con trai Tấn, Quyết và Tâm hai cô em họ Tấn, hai cô con gái và bạn con gái Thịnh, Vợ chồng A Sầu và Lan đi mua sắm; một tốp gồm Thắng, Minh, Thịnh, Tấn, Nghĩa, Sơn, Tường, Hùng tô và chị Niệm trực chỉ trường Y Trung tham dự lễ kỷ niệm 70 năm ngày thành lập trường. Khi đến nơi không nhìn thấy cảnh cũ của trường Y Trung ngày xưa cũng hơi buồn. Trường ngày xưa bây giờ họ lấy làm trường cao đẳng du lịch. Trường Y Trung chuyển về địa điểm mới cách trường cũ khoảng gần hai cây số.
Trước cổng trường không khí thật là náo nhiệt. Đội nghi lễ của trường gồm khoảng 30 học sinh xếp hàng ngay ngoài cổng, mỗi khi có khách đến đều nổi trống và nhạc chào đón rất hoành tráng. Các cựu học sinh của trường đợi nhau ngoài cổng và xếp hàng qua cổng vào khu tiếp đón. Nhìn vào trang phục cũng có thể nhận thấy họ thuộc rất nhiều tầng lớp khác nhau, sang có, bình dân có, tuy nhiên gặp nhau tay bắt mặt mừng rất là phấn khởi.
Tốp của chúng tôi đến vào loại sớm nhất và đúng như thời gian hợp đồng trước đó. Xe của tốp Thầy Chi Phan và Kiến Quốc đến muộn nhất vì có trục trặc về chía khoá phòng. Cuối cùng thì đoàn Việt
Lực lượng quay phim, chụp ảnh của đoàn ta khá hùng hậu vì đây là thời kỹ thuật số, các máy ảnh, máy quay cứ vô tư tác nghiệp không sợ tốn phim. Nếu có điều kiện thu thập toàn bộ các kết quả chụp và quay phim thì chúng ta có một bộ sưu tập rất hay và đồ sộ.
Kết thúc buổi lễ là nghi thức đánh chuông. Tất cả các quan khách chủ tịch đoàn đều tham gia nghi thức này.
Sau lễ chính thức, tất cả các quan khách được mời đi tham quan trường và tham gia lễ cắt băng khánh thành khu lưu niệm, trong đó có tượng của người sáng lập trường cách đây 70 năm.
Sau khi tham quan toàn bộ cơ ngơi của trường, trong người tôi thấy một sự chạnh lòng khó tả. Một trường trung học dưới cấp tỉnh, nhưng những điều kiện vật chất thì ngay cả các trường đang gọi là quốc tế ở thành phố Hồ Chí Minh cũng không thể bén gót. Không nói đến cơ ngơi phòng học, phòng thí nghiệm rất đầy đủ khang trang, trường có một sân vận động hiện đại, một nhà thi đấu có thể so sánh với các nhà thi đấu của nghành thể thao nước ta. Còn ở nước ta, suốt ngày báo chí nói về nghành giáo dục, nhưng chẳng thấy chuyển biến gì. Theo tôi được biết, các trường đại học của TQ cơ ngơi rất hoành tráng, ví dụ trường Đại học Vũ Hán có diện tích rộng trên 400 ha, đi lại trong trường bằng xe buyt, trường Đại học công nghệ Nam Kinh có diện tích 184 ha, trong khi đấy ở Tp. Hồ Chí Minh, trường Đại học Sư phạm, trường Đại học khoa học tự nhiên thì chật ních, không có lấy một sân bóng đá cho sinh viên, không có chỗ để triển khai môn giáo dục thể chất cho đàng hoàng ngoài cái nhà thi đấu bé xíu. Cái đấy có lẽ do tầm nhìn, trong khi đất dành cho các mục đích khác được phê duyệt khá nhiều thì đất và kinh phí dành cho đào tạo các máy cái là con người thì hình như được xem rất nhẹ.
Trước khi tạm biệt trường Y Trung, thầy trò trường Trỗi cùng ban giám hiệu nhà trường trồng cây và gắn biển lưu niệm xác nhận sự có mặt của thầy trò trường Trỗi tại đây trong năm 1966 -1967. Việc trồng cây và gắn biển được tổ chức đơn giản nhưng thắm tình hữu nghị, lính Trỗi tranh nhau ghi lại những hình ảnh này đồng thời cố gắng có mình trong ảnh.
Buổi trưa cháu Hoa dẫn cả đoàn đi ăn đặc sản. Tại đây Hoàng Sơn vẫn còn mang theo lọ chao còn lại bữa trước. Mặc dù ăn cơm đặc sản nhưng cơm với chao vẫn ngon.
Buổi chiều, đoàn lên xe trực chỉ trường mới. 40 năm đã trôi qua, mọi thứ đều thay đổi, phải hỏi thăm vài lần, xe chúng tôi mới tìm tới được. Trong khuôn viên trường có nhiều công trình mới so với hồi chúng ta đang sống tại đây, tuy nhiên, bên ngoài thì phát triển tương đối lộn xộn, na ná như ở VN. Không còn khoảng trống trước cổng trường nơi mà ngày xưa khoá 3 đã từng ngồi im trong mưa để xem các bạn TQ biểu diễn văn nghệ. Tinh thần kỷ luật của khoá 3 lúc đó thật là đáng khâm phục, không ai bảo ai nhưng mọi người ngồi im chịu ướt dưới mưa để xem văn nghệ, tinh thần ấy làm cho các bạn diễn viên lúc đó cũng không nỡ dừng buỗi diễn và tiếp tục diễn trong mưa. Đoàn của chúng tôi đến sớm nhất, trong khi chờ đợi chúng tôi tranh thủ đi tham quan một vòng quanh trường. Các cháu sinh viên nhìn thấy chúng tôi rất ngạc nhiên, mà ngạc nhiên là đúng vì họ có biết chúng tôi là ai mà cứ chỉ chỉ chỏ chỏ ở trong khu vực nhà trường. Những công trình từ trước đây còn lại gồm có bể bơi, hai nhà của khoá 3 và khoá 5, nhà thư viện, nơi mà thầy trò chúng tôi sẽ trồng cây lưu niệm ngay sau đó. Thầy hiệu trưởng của trường Cao đẳng công nghệ hàng không hứa sẽ giữ lại nhà thư viện này để làm kỷ niệm, thật là cảm động. Cũng như ở trường Y Trung, buổi trồng cây và gắn bia lưu niệm diễn ra đơn giản nhưng thắm dượm tình thân thiện, hữu nghị. Cũng như buổi sáng, Kiến Quốc đứng ra bắt nhịp bài hát truyền thống “ Việt Nam Trung Hoa”.
Sau lễ trồng cây ở trường mới, đoàn chúng tôi được cháu Hoa dẫn di thăm Dương Sóc. Đoàn đi Dương Sóc kết nạp thêm một thành viên mới người TQ, cháu tên là Thanh, bạn của các cô con gái Thịnh. Thanh khá xinh gái, người Liễu Châu, đang làm việc tại Quế Lâm. Điều đặc biệt là cô bé này có người yêu là người VN, quê Sơn Tây, cháu chuẩn bị về làm dâu VN. Vì chuẩn bị lấy chồng VN nên cháu đã tự học tiếng Việt bằng phương pháp giao lưu với người Việt, tiếng Việt của cháu khá tốt.
Ngày hôm sau cả đoàn đi thăm động Thất tinh. Trong đoàn từ khi có hai cô con gái của Thịnh tham gia có phần sinh động hơn. Các cháu rất sôi nổi, quậy cũng tưng bừng không kém các chú các bác ngày xưa.
Từ động Thất Tinh về chúng tôi trả phòng và tách đoàn. Doãn Thịnh và các cô con gái đưa Cảnh Nghĩa đi thăm Bắc Kinh và Vũ Hán. Số còn lại chuẩn bị lên đường đi thăm Thâm Quyến.
Tôi cũng muốn viết nhiều về Quế Lâm nhưng các bạn khác đã viết khá đầy đủ và hình ảnh rất sinh động nên thấy viết nữa là thừa mà không hay bằng những bài đã đăng. Bạn nào muốn tìm hiểu xin mời vào blogbantroi, xem các bài đăng trong tháng 11 năm 2007, rất nhiều tin hay và bổ ích, thậm chí có rất nhiều hình ảnh đẹp.
Thứ Bảy, 15 tháng 12, 2007
Thứ Năm, 13 tháng 12, 2007
Minh họa bài "Tản mạn sau chuyến đi " phần 2 của KT
Thứ Ba, 11 tháng 12, 2007
Tản mạn sau chuyến đi ( tiếp theo 2)
2/ BẰNG TƯỜNG –
Từ quán ăn chúng tôi thuê xe lôi máy đến ga Bằng Tường. So với ga Sài Gòn ga này không kém về diện tích và quy mô nhưng cách xây dựng thì hiện đại và tổ chức khoa học và văn minh hơn ta. Nhà ga không thấy bóng dáng các loại cò mồi nên hành khách cảm thấy rất yên tâm. Vệ sinh trong ga ở mức tương đương sân bay quốc tế, không hề thấy các loại rác do hành khách thải ra như ở ta. Chúng tôi đi chuyến tàu chợ Bằng Tường – Nam Ninh vé ghi khởi hành lúc 12g45, và tàu chạy đúng như kế hoạch. Giá vé tàu chợ khá rẻ, chỉ có 17 tệ (khoảng 35 ngàn VN). Tàu chợ nhưng rất sạch sẽ, ghế ngồi rộng rãi thoải mái, không có số ghế nên thích ngồi đâu thì ngồi. Trên tàu có một số nhân viên hoả xa đi lại bán hàng rong như nước ngọt, trái cây, đồ chơi ... Tuy nhiên, theo tôi nhận xét, những người này không có biên chế vì khi bán hàng họ cũng cãi nhau vì đứng bán lâu mất khách của nhau. Trung Quốc là trung tâm sản xuất đồ chơi của thế giới, điều này chúng ta đều biết cả, nhưng khi tiếp cận với vài thứ đồ chơi rất - rất bình dân mới thấy họ có những ý tưởng thật là độc đáo. Ví dụ, trên chuyến tàu hôm ấy có bán một số đồ chơi nhỏ nhỏ, xinh xinh. Một chàng trai bán con quay trổ tài cho con quay đứng trên mọi thứ mà chân con quay có thế đứng được, thậm chí trên một đầu que nhựa dùng để tạo mô men xoắn cho con quay quay, que nhựa oắn xuống vì sức nặng của con quay nhưng vẫn bám trên đỉnh que nhựa. Tiếp theo cậu ta biểu diễn các chuỗi các khối tam giác nhựa được nối khớp với nhau, dài như con rắn nhựa nhưng nối khớp như khối rubic. Từ một chuỗi như vậy cậu ta xoay, bẻ để tạo thành rất nhiều hình con thú và đồ vật khá điệu nghệ và thông minh. Một cô bé bán đèn pin bóp, cô bé khá tươi nên khi đến chỗ đoàn VN ngồi bị các “ông già” tán tới số bằng thứ tiếng tàu lởm khởm và bằng tay chân, điệu bộ. Đèn bóp khá rẻ, khoảng 20.000đ VN, để thuyết phục khách hàng, cô gái nhúng cả đèn vào ca nước mang theo, vì làm bằng nhựa trong suốt nên nhìn thấy nước đầy trong đèn mà đèn vẫn sáng và không cần bóp ( trước đây chúng ta hay mang từ Liên X ô cũ về loại đèn bóp khá nặng kể cả về trọng lượng và cả về lực cần để bóp cho đèn sáng, thế nhưng khi nào ngừng bóp là đèn hết sáng). Cách tiếp thị như vậy hai bạn trẻ cũng bán được kha khá cho các “ông già” trong đoàn. Vì ngồi hơi lâu chỗ đoàn Việt nam hơi lâu nên cô bé bị một ông trung niên cự nự rất dữ vì dành mất khách “xộp”. Từ tình tiết này có thể suy đoán ra là những người bán hàng không phải nhân viên đường sắt mà là tư nhân mua chỗ bán hàng trên tàu và được cấp biển nhân viên. Lúc sau cô bé chia tay với các “ông già” và có hẹn quay lại nhưng cho đến khi tàu đến Nam Ninh chúng tôi cũng không gặp lại. Tàu càng gần đến Nam Ninh hành khách càng đông nhưng vẫn có trật tự.
Từ Bằng Tường đến Nam Ninh tàu chạy khoảng 4 tiếng, trong thời gian đấy nhìn ra ngoài chỉ thấy bạt ngàn là mía, mía mọc khắp nơi trong các thung lũng to nhỏ của dãy núi đá, chắc đây là vùng nguyên liệu mía lớn nhất của TQ. Trên những cánh đồng mía mênh mông chẳng thấy mấy bóng người. Cánh đồng mía nằm theo sườn núi và trong thung lũng chắc là thu hoạch khó khăn hơn rất nhiều so với ở đồng bằng, vậy mà nghe đâu giá đường của họ không cao hơn ta. Như vậy, một là giá công lao động của người nông dân rất thấp, hai là giống của họ tốt và mía cho năng suất và hàm lượng đường cao và ba là công nghệ làm đường của họ hiện đại và hiệu quả. Trước đây có nghe nói bộ Nông nghiệp nước ta nhập khẩu khá nhiều nhà máy đường cũ với giá rẻ, chắc là lúc họ thay đổi công nghệ để đi lên còn ta mua công nghệ để đi ngược lại trách gì các nhà máy đường nước ta toàn thua lỗ. Thế mới thấy cái thâm của người tàu.
Tàu đến Nam Ninh khoảng gần 5 giờ chiều. Nhà ga khá đồ sộ, hành khách di chuyển toàn dưới đường chui chứ không di chuyển qua đường sắt như ở ta. Thật lạ là người nước mình du học khắp thế giới, thế mà những cái thấy tiện ích và an toàn đập vào trước mắt lại chẳng học được lấy một tí. Cả thế giới người ta làm đường chui để cho người dân đi lại không gặp nguy hiểm, không gây ách tắc giao thông. TQ là nước gần với ta các điều kiện cũng không xa ta mấy, thế mà từ thành phố lớn nhỏ người ta đều có đường chui, còn nước ta, nghe đâu tại Tp. Hồ Chí Minh có mấy dự án làm bãi đỗ xe ngầm vẫn nằm trong tủ vì lý do chưa có tiêu chuẩn xây ngầm nên không cơ quan nào dám ký cấp phép, thật buồn cười.
Sau khi xuống tàu chúng tôi tập trung ở sân ga để Thắng và A Sầu đi thuê khách sạn. Sân ga rộng rãi mát mẻ, sạch sẽ. Dưới sân ga là cả một siêu thị ngầm rất rộng và bán đủ mọi thứ. Vì đã có kinh nghiệm nên Thắng và A Sầu thuê khách sạn đường sắt với giá 100 tệ/ phòng ( khoảng 210.000 VND), khá rẻ và dễ chịu. Tuy nhiên một số điều kiện không bằng được khách sạn nước mình, ví dụ như phòng chật, các công trình phụ không đựơc bảo dưỡng thường xuyên nên không được tiện nghi lắm. Trong phòng chờ của khách sạn có một tủ kính bán hàng VN, chứng tỏ người Việt sang đây thường xuyên. Sau khi tắm rửa xong, Thắng dẫn chúng tôi đi ăn cơm “bụi” ngay tại vỉa hè bên cạnh khách sạn. Mặc dù đã được nhắc nhở nhưng hai cô gái bán cơm vẫn làm thức ăn với rất nhiều dầu, món nào cũng cho dầu rất nhiều. Vì đi xa đã đói nên Thắng và A Sầu kêu khá nhiều đồ ăn, thế mà cuối bữa cũng không thừa nhiều lắm. Trong đoàn có Hùng Tộ nổi tiếng ăn khoẻ từ xưa, đến giờ vẫn duy trì được phong độ như vậy, mọi tồn đọng được Hùng Tộ giải quyết trong nháy mắt. Do có Hùng Tộ nên khí thế ẩm thực trong đoàn sôi nổi hẳn lên, bữa cơm nào mọi người cũng ăn rào rào, kể cả các chị em nhà Quốc Tấn. Ở TQ các cửa hàng cơm bụi toàn dùng đồ nhựa ( không biết có phải sản xuất từ rác thải y tế không), ăn xong là vứt hết không phải rửa bát đũa, vì vậy khi ăn cũng không sướng lắm, nhất là uống bia không thể cụng được. Sau khi ăn no nê, tiền ăn bình quân mỗi người khoảng 20 ngàn tiền Việt, kể cả 6-7 chai bia BiQ. Trong toàn bộ chuyến đi Nguyễn Thắng kiểm soát rất chặt chẽ việc bia rượu, bữa nào cũng có bia nhưng mỗi người không quá nửa lít. Có lẽ vì sinh hoạt ẩm thực có chừng mực nên cả đoàn đi một tuần chủ yếu ăn cơm bụi và đi bộ mà không thấy ai ốm đau gì. Nghe nói vợ và hai cô em họ của Quốc Tấn ở nhà cứ khật khừ hoài mà trong chuyến đi này lội bộ khoẻ như thanh niên, đám đàn ông nhìn thấy lác mắt.
Cơm nước xong cả đoàn rũ nhau đi Trung tâm triển lãm-hội chợ Nam Ninh. Hôm ấy là tối 24/10, ngày 26/10 khai mạc Hội chợ Nam Ninh, Việt Nam có tham dự Hội chợ này và hơn thế nữa, nghe nói Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng có mặt trong buổi khai mạc. Khu vực Hội chợ thật là hoành tráng mặc dù đây chỉ là một thành phố cấp tỉnh mà lại là tỉnh nằm trong số nghèo nhất TQ, thế nhưng tôi chưa thấy ở nước mình có chỗ nào sánh được. Ở khu vực này, để bảo đảm giao thông thông suốt không ách tắc, họ xây dựng hệ thống đường rất tuyệt vời với nhiều tầng san sát nhau. Mọi thứ đều có sự quy hoạch rất nghiêm túc từ hệ thống các công trình kiến trúc, hệ thống giao thông, hệ thống xe buyt phục vụ, hệ thống cây xanh và vườn hoa. Mọi thứ đều thấy có bàn tay con người chăm sóc kỹ lưỡng. Đường phố không thấy rác, bịch nylon không bay tứ tung, dưới các đường chui ( tôi chưa biết thuật ngữ đường dưới đường là gì nên tạm gọi như vậy), cầu chui không thấy rác rưởi mà cây xanh loại dây leo được trồng và chăm bón kỹ lưỡng. Ở VN nếu để ý sẽ thấy sự nhớp nhúa dưới các cầu vượt, thôi thì đủ thứ rác loại gì cũng có. So sánh như vậy để thấy cái kém cỏi trong quản lý của mình. Về độ ở bẩn trước đây VN phải gọi TQ là cụ thế mà bây giờ họ khác mình rất xa. Đến khu triển lãm nhìn thấy cờ VN được gắn trên cột đèn đầu tiên, tiếp theo là cờ các nước Đông Nam Á như Thái Lan, Indonexia, Malai ... Trèo một số bậc tam cấp lên đến sân chính thì thấy Quốc huy VN và một số nước đang được bố trí trong khu vực sân chính. Ra nước ngoài nhìn thấy Quốc huy và Cờ Tổ quốc trong lòng trào lên một cảm giác thật là thật là khó tả, không thể nói và viết lên được, đấy là cảm xúc của người con ở xa tổ quốc. Cả đoàn chỉ được ngắm và chụp ảnh ở bên ngoài vì Hội chợ chưa khai mạc.
Phương tiện vận chuyển và đi lại của Nam Ninh khá đa dạng từ xe đạp các kiểu, xe máy, oto các loại từ rất đắt như mecedes đến các loại rẻ được chế tạo tại TQ. Tuy nhiên, khác với nước ta, xe đạp phần đông rất xấu xí, còn xe máy cũng vậy, không đẹp và nhiều loại như ta. Nếu so với VN thì tỉ lệ loại xe hai bánh rất ít, nhưng so với TQ thì tỉ lệ khá cao. Ở Nam Ninh cũng như ở các thành phố nhỏ của TQ, xe đạp, xe xe đạp điện, xe máy điện (tôi tạm gọi như vậy vì bản chất nó là xe hai bánh chạy điện như xe đạp nhưng lại có bề ngoài giống như các xe máy tay ga tại VN) khá nhiều, những loại xe này luồn lách rất nhanh trên vỉa hè (ở TQ họ quy hoạch vỉa hè khá rộng để dành cho người đi bộ), không gây ô nhiễm khí thải và không gây tiếng ồn. Xe buyt là phương tiện đi lại chủ yếu của người dân TQ. Đường xá được quy hoạch khá tốt và hiện đại cộng với sự tổ chức các tuyến xe buýt hợp lý nên người dân dễ dàng chấp nhận loại phương tiện giao thông công cộng này cũng giống như ở các nước phát triển trên thế giới. Trên xe buýt không có người bán vé, vé có thể mua ngay tại cửa lên ở đầu xe (cửa xuống ở giữa xe) hoặc trình vé tháng. Lái xe hầu như không tham gia vào quá trình mua bán vé nhưng họ kiểm soát khá chặt chẽ bằng các thiết bị tự động. Trên xe buyt có camera quan sát hành khách, có thiết bị định vị để trung tâm điều độ biết vị trí xe nhằm điều chỉnh quá trình đưa đón hành khách, chính vì vậy nên không gây ùn tắc, xe lúc nào cũng trật tự không lộn xộn chen lấn, xô đẩy nhau.
Chúng tôi nghỉ một đêm tại Nam Ninh, sáng hôm sau cả đoàn đi dạo phố và ngắm các loại cửa hàng. Cửa hàng bán máy điện thoại di động nhiều vô kể, kích cỡ cửa hàng cũng đủ màu sắc, to nhỏ, sang, bình dân ... Máy có đủ các hãng nổi tiếng trên thế giới, máy TQ. Giá cả thì vô chừng, tiền nào cũng có, chỉ không biết chất lượng như thế nào thôi. Tôi và Quốc Tấn mỗi thằng mua một sim trị giá 40 tệ. Tấn gọi về VN được 3 cuộc thì hết tiền, còn tôi, không gọi mà nhắn 3 tin về VN, còn lại chỉ gọi cho các máy trong đoàn nên dùng được đến ngày về, có một điều là khi về VN hỏi thì ở nhà không nhân được tin nhắn nào cả, không hiểu tại sao, rõ ràng máy báo đã chuyển được tin nhắn. Tìm hiểu ra mới biết, TQ có rất nhiều hãng điện thoại di động cấp tỉnh, cái sim của bọn tôi mua là sim của Quảng Tây, không có giá trị gọi trong toàn TQ, gọi quốc tế thì cước tính rất cao. Lần sau phải tìm mua sim của hãng nào có mạng trên toàn TQ.
Buổi trưa ngày 25/10, chúng tôi trả khách sạn và đi xe buyt đến bến xe Nam Ninh. Bến xe rất rộng, phong cảnh đẹp như trong công viên, vệ sinh sạch sẽ, phòng chờ và mua vé khang trang, rộng rãi, thoáng mát. Dưới sân đậu xe là tấng hầm rất to để đỗ xe chưa có kế hoạch chạy. Lưu lượng hành khách tại bến xe khá đông vì có tất cả các tuyến đi khắp TQ, tuy nhiên bến xe không ồn ào náo loạn, không có cảnh chen lấn xô đẩy, không có lực lượng có mồi, lực lượng bốc vác lộn xộn như ở ta.
Chúng tôi mua vé loại xe chất lượng cao, ghế ngồi rộng rãi như ghế hạng thương gia trên máy bay, giá vé cũng không cao lắm khoảng 40 tệ cho quãng đường 400km. Xe chạy trên đường cao tốc với đúng nghĩa của nó, nghĩa là mặt đường rất bằng phẳng, xe chạy với tốc độ trên 100 km/h vẫn êm ru, làn ranh giữa hai chiều đi là một công viên được xén tỉa kỹ càng rất đẹp, hai bên đường là hàng rào ngăn chặn gia súc. Trên đường cao tốc không có bất cứ loại xe hai bánh ba bánh nào, người đi bộ mà đi trên đường cao tốc là bị phạt, xe oto dưới 1000 cm3, các loại xe oto không chạy đạt tốc độ cao cũng không được chạy trên đường này. Phí cầu đường trên đường cao tốc rất cao, một hành khách biết tiếng Việt cho chúng tôi biết, nếu tiền xăng để đi hết một chặng đường khoảng 250 tệ thì tiền đường khoảng 400 tệ. Khi đi vào tuyến đường cao tốc người ta phát cho một thẻ từ, Khi đi ra khỏi đường cao tốc họ quẹt vao ổ để định số km đã chạy, khi nào vào đường cao tốc lại quẹt tính tiếp, khi hết đường cao tốc hoặc đến thành phố thì người ta tính tiền một lần luôn. Trước đây thời ông Đặng Tiểu Bình, người dân phải đóng thuế xây dựng đường tính theo đầu người, sau này khi mạng đường cao tốc đã phát triển đầy đủ và đã thu phí người ta không bắt đóng phí xây dựng đường nữa. Sau khoảng hơn 4 tiếng chúng tôi đến bến xe Quế Lâm, nơi cách đây 40 năm, trên một ngàn thầy cô trường Văn hoá Quân đội Nguyễn Văn Trỗi Tổng cục Chính trị rời tàu hoả lên xe oto hành quân vềTrường trung học số 1 Quế Lâm để sống và học tập hơn một năm ở đó. Mọi thứ đều thay đổi, nhà cao tầng mọc lên san sát không thoáng đãng như những ngày xưa, nói chung là không nhận ra được một hình ảnh nào của ngày xưa. Có một điều tôi thấy rất lấy làm tiếc là một thành phố sạch đẹp như Quế Lâm mà để nhà vệ sinh bến xe bẩn không thể tưởng tượng nổi, khai thối bẩn thỉu hơn ga Hàng cỏ của chúng ta cách đây 20 năm. Vì đi đường xa nên bắt buộc phải giải quyết nỗi buồn chứ vào đấy muốn ói ngay, vẫn nhà xí máng bẩn thỉu, phân, nước giải ngập ngụa, tôi không thể hiểu nổi tại sao thành phố lại để tồn tại một nhà vệ sinh như vậy.
Chúng tôi đợi chị Niệm, người đóng góp rất nhiều cho mối quan hệ giữa chúng ta cựu thầy cô trường Trỗi với trường Y Trung, Trường Cao đẳng công nghệ hàng không ( là trường tiếp quản toàn bộ “trường mới” tại khu Phong Khẩu), ra đón và đưa về khách sạn vì chị có mối quan hệ rất thân thiết với Nguyễn Thắng và Thắng nhờ chị thuê hộ khách sạn.
THÔNG BÁO TIN VUI
Con rể là Hầu Giai, tiến sỹ kinh tế học ở Nga về. Quê quán Tân An-Thiểm Tây-Trung Quốc.
Địa điểm Sảnh F, nhà hàng Đông Phương, 431 Hoàng Văn Thụ, Thành phố Hồ Chí Minh.
Tiếp khách từ 17g30, khai tiệc lúc 19g00 cùng ngày.
Minh Chính có nhã ý mời tất cả các bạn khoá 3 và các bạn trường Trỗi khác nếu có điều kiện đến dự cho vui vẽ và xôm tụ vì nhà trai từ TQ sang chỉ có 6 người.
Người thông báo Khánh Tường.
Thứ Năm, 6 tháng 12, 2007
CHIA BUỒN VỚI HỮU HOÀNG
gửi lời chia buồn tới bạn Hữu Hoàng cùng gia đình bạn Hoàng .Ban liên lạc k3 ở Ha Nội đã thông báo điện thoai cho các bạn trong khoa3 biết và cũng thông báo đ/t của Hữu Hoang để các ban k3 không có điều kiện đi viếng gửi điện chia buồn
blog "bạn trỗi khóa 3"
Thứ Ba, 4 tháng 12, 2007
THÔNG BÁO
Các bạn tại TP. HCM sẽ tập trung viếng vào lúc 10g00 sáng 06/12.
TM ban LL phía Nam : Khánh Tường
Thứ Bảy, 1 tháng 12, 2007
YÊN MỸ ĐẠI TỪ THÁI NGUYÊN
Theo mình nhớ thì k 3 thi hết cấp 2 ở trại Cờ . Sau khoảng nửa tháng ( khoảng tháng 7 ) trương bắt đầu tiếp nhận thêm nhiều bạn nữa . Lớp 9 10 (khóa 1 2 ) lúc này mới vào trường . Tâp trung ở phố Thắng non 1 thang rồi lên Yên Mỹ Đai Từ , lên Yên Mỹ còn khá nhiêu ban lên tiếp . Ân tương đầu tiên trên đường đi là thành phố Thái Nguyên lúc đó rất đơn sơ chỉ toan nhà tranh tre nứa lá ,nhà gạch ngói chủ yếu là của cơ quan nhà nước .Băt đàu đến đầu cầu Giao Bẩy rẽ trái đi lên Đai. Từ . Từ đây vào đến xã Yên Mỹ là đường rừng núi rồi hai bên đương toàn đồi và cây rừng lưa thưa vài nhà dân ven đường . Qua thị trấn Đai Từ cũng chỉ thấy khoảng vai ba chuc nhà ven đường . Chợ thị trấn ở ngay ngã ba rẽ vào xã Yên Mỹ . chợ là một bãi đất rộng có vài cái chòi mái lá bốn cọc tre xieu xiêu dùng để che nắng che mưa vao ngày phiên chợ .Từ Dại Từ vào Yên Mỹ là đương cấp phối đươc mở cho ô tô lâm nghiep vào chân Tam Đảo để khai thác gỗ .Anh em ta ngồi trên thùng xe tải đặt ghế băng xô ngiêng ngả khi đi qua các loại ổ gà ổ trâu ổ voi , rồi còn qua suối nữa chứ .Hai bên đường thì hầu như không có nhà toan cây rừng và lau sậy .Vào đến trung tâm của xã là một bãi đât rộng bằng phăng nơi có cửa hàng HTX của xã thì rẽ trái đi vào các xóm của dân để ở tạm vì lúc đó chưa làm xong nhà doanh trai của trường .Xã Yên Mỹ là một lòng chảo phía tây bị dãy Tam Đảo chắn còn các hướng bắc đong nam là các quả đồi khá cao chắn là ranh giới tự nhiên với các xã khác của huyên Đai Từ .Ruộng nươc của xã không nhiều lai xen kẽ vói các gò đất nhỏ nên dân ở đây vừa lam ruông nước vừa làm ruộng nương . Dân thì sống phân tán theo các xóm ,trại như xom Cầu Đá xóm Cao Chùa ,trại bưởi ,trại Cau v.v...nói chung là một xã miền rừng núi điển hình nhưng của người kinh vì khong sống trên nhà sàn mặc dù cũng có một số gia đình người dân tộc xen lẫn .Cương còn nhớ lên dây khi đi chơi qua các con suối còn thấy cối giã gạo nước tức là cối giã khong phải đạp chân mà đuôi cối đươc khoét một khoang rỗng có một đoan ống bương dẫn nước đổ vào khoang ,khi đầy nước trong khoang theo nguyên lý đòn bẩy sẽ vít cần cối lên nhưng đồng thời nước trong khoang ở đuôi cối cũng bị đổ ra ngoài đầu cối lúc này năng do có đàu chày rơi xuống giã vào cối gaọ .Cứ thế đén cuối ngày là đồng bào có một cối gạo trăng ngon lành .Còn nhà dân thì cũng giống nhà vùng xuôi nhà năm gian, hai trai làm buồng ngủ và kho ,ba gian giữa dể bàn thờ và bàn nước tiếp khách 1,2 cái giường của chủ nhà .Vì ở miền rừng nên sẵn gỗ nên các nhà đều làm nhà gỗ ,mái thì hầu hết là mái tranh hoặc mái rơm có ít nhà mái ngói ,vuông góc với nhà chính là nhà bếp .Bên mái hiên là cối xay lúa và cối giã gạo ,vườn sau nhà có chuồng lợn chuồng trâu và trồng cây ăn quả ;chuối mít na, bưởi rồi cả tre,xoan vv...Vươn trước nhà thì thường là trồng ít rau gia vị ớt hành rau thơm có nhà còn trồng hoa cay cảnh ở xung quanh sân trước nhà ;cũng có cả cau và xoan .Có điểm khác với đồng bằng là nhà ở đây hầu hết là trên các gò đồi nhỏ và vì ở miền núi rừng dân thưa nên vườn tược khá rộng rãi .Ruộng nước không nhiều nhưng đất khá tốt .trâu bò có nhiều chỗ chăn nên béo khỏe .Nói chung Yên Mỹ là một xã miền núi nhưng mang đặc điểm là một xã miền núi của người kinh nhiều hơn .Khóa3 lên Yên Mỹ đầu tiên là ở xóm Cầu ĐÁ vì doanh trại trong chân núi chưa làm xong .Số lượng đã khá đông các bạn ở hầu hết các trương ở Hà Nội Lý Thường Kiệt ,Thanh Quan ,Nguyễn Trãi ,Tô Hiến Thành vv ...
đều vuà kêt thúc cấp 2 .Với Cương thì thấy trương Nguyễn Trãi 2 (bây giờ là trương Phan Đình Phùng câp 3) có rât nhiều ban vào trường Trỗi kể cả nữ nữa thì phải được hơn 20 người .Đó là khóa 3 còn khóa 4 cũng rất đông .Sống trong nhà dân nên được các thầy giáo dục cẩn thận về ý thức dân vận của bộ đội .Thời gian này coi như nghỉ hè vừa ôn lại kiến thức chuẩn bị vào học lớp 8. Minh còn nhớ một lần đi chơi vào nhà dân Cương ,Thế Châu (lé),Dương Thanh ,Trung Việt Mua bưởi ăn đầu tiên còn bóc lấy múi ăn ,sau đó để tăng tốc bọn mình gọt tới cùi rồi cầm cả quả gặm,lúc mới lên Yên Mỹ bưởi rất rẻ chỉ 5xu 1 quả sau này do lính Trỗi lên phá giá nên dân ở đây tăng lên
1 hào rưỡi 1 quả . Còn bạn nào muốn giải quyêt vấn đề dạ dày thì vào nhà dân mua sắn khoai nhưng sắn là chính khoai ở trên đó trồng không hợp đất nên ít .Sau hơn 1 tháng ở nhà dân thì quân k3 và k1 k2 vao ở sat chân dãy Tam Đảo .k3 lúc này quân số khoang 150 người(là áng chừng thế) chia thành 4trung đội .K1,K2 thì quân số chỉ khoảng 3 trung dội nên hợp lại thành 1 đại đội gọi la đại đội 10 .
Vì nhớ theo trình tự thời gian nên hơi lan man các bạn thông cảm .Có lẽ thời gian ở Đai Từ Cương sẽ phân thành 3 phần .Hai phần sau là thời gian ở trong rừng và thời gian ở trại bưởi . Có gì còn lủng củng mong các bạn thứ lỗi và bổ xung thêm
NC
Thứ Sáu, 30 tháng 11, 2007
TIN DU HOC
Nguyễn Cương
Thứ Hai, 26 tháng 11, 2007
ĐAM CƯỚI CON GAI LÝ TRƯỜNG
Thứ Hai, 19 tháng 11, 2007
Thông báo
Trưa nay, theo thông báo của Văn Tòan (Mít) k3, tôi có mặt ở nhà hàng Vạn Hoa ven hồ Trúc Bạch dự cưới con gái Bồ Xuân Vinh. Anh em k3 Trỗi có chừng hai chục vị, cả bạn Bùi Vinh. Vậy là tuy bố đã đi xa nhưng các chú, các bạn đồng đội bố vẫn có mặt để chứng kiến ngày vui trọng đại của 2 cháu. Chúc 2 cháu hạnh phúc!
Dưới suối vàng chắc Bồ Vinh vui lắm! Nhớ phù hộ cho các con, Vinh nhé!
------------------------------------------------------------
Nhân thông tin về đám cưới của con Bồ Vinh chúng tôi cũng xin thông báo: ngày chủ nhật tới (25/11/2007) lại có hai đám cưới của con hai bạn:
Tài Chí ở Hà Nội
Lý Văn Trường ở Thái Nguyên
K3 chúng ta có lẽ phải có kế hoạch cho hợp lý