Thứ Sáu, 1 tháng 1, 2010

Thứ Năm, 31 tháng 12, 2009





Bài hát Ngẫu hứng phố

Gửi tặng các bạn một ca khúc mà LC rất thích,để nhớ về nơi xa ấy,nơi có một tuổi thơ .

Thứ Tư, 30 tháng 12, 2009

Nửa vời nhà ống (tiếp theo và hết)


  Nhưng lại có một quá trình khác, ở chiều ngược lại. Khi trở thành thị dân, người quê cũng làm ăn buôn bán, quan hệ rộng hẳn. Các tinh hoa bốn phương đổ về, để có lúc nhận ra rằng thành hoàng làng mình không hẳn đã “đè nghít” được thành hoàng làng khác, thiên hạ còn khối anh tài danh, rằng ta chỉ giỏi một, trong khi những ấy những nọ còn nhiều nghề lắm. Và dù sao, nơi cư trú mới cũng có lệ làng mới, áp đặt lên ta những lề thói không thể không theo.
  Nhận thức khác thì ứng xử cũng thay đổi. Cái để dung hoà giữa “hoà nhập” với “trở về cội nguồn” là các hội nghề nghiệp, thư quán, xã quán. Những kì hội chợ Tây mở có khu riêng cho các nghề, phần nào đem lại sự hoà trộn. Trong sinh hoạt nghề nghiệp, quan hệ xã hội thì như vậy. Còn tại nơi ăn chốn ở, cái chỗ khả dĩ dung hoà ấy là ngôi nhà ống đa chức năng. Nhà ống vừa khép vừa mở, cho phép cá thể và cộng đồng cùng tồn tại, cộng sinh. Anh em, bố con buôn chung một vốn, “thuyền lên nước lên”, lại vừa kiến giả nhất phận. Ngoài những chỗ để sinh hoạt chung ra, mỗi gia đình nhỏ có chốn riêng, nhưng lại không kín đáo quá. Để vào “chuồng tiêu”, lên kho lấy hàng hay ra phố, thì người nọ đi qua nhà người kia. Sinh hoạt vợ chồng phải giấu diếm. Ăn thêm miếng nào dễ cảm thấy mình “ích kỉ”. Thế nên có nàng dâu mới gẩy từng hạt cơm trước mặt mẹ chồng, chị em dâu, sau đó ra ngoài chén đẫy hai ba bát phở. Ra phố cơ mà, chứ có phải ra làng đâu, ai biết mình lèn cho chặt bụng…
  Kín đáo với xã hội, mở ra trong gia tộc, nhà ống dung dưỡng một tinh thần chung, lại cho phép cái riêng duy trì. Nó thích hợp với sự nửa vời, ngại ngùng sự giải phóng cá nhân tuyệt đối, lại vừa sợ hãi, chán ngán các tôn ti, phép tắc- có thể do cụ cố hay bà mẹ chồng áp đặt. Những cái ống có nhiều ngăn nhưng không nhiều không khí để thở lắm ấy vừa là pháo đài gia tộc, vừa là cửa khẩu thông giao. Những con người trong đó chân còn dính bùn, đầu nghĩ chuyện mang hàng đi nơi xa quảng bá có một tâm lí không nhất quán: vừa tự tin, hồ hởi muốn vươn ra, lại vừa tự ti, khép lại, quay về nếp làng. Người đàn ông chủ gia đình gánh hàng lên ngược bán có thể chơi bời, phá cách mặc sức, khi về lại một mực giáo huấn vợ con bảo vệ nếp nhà. Những cậu trai theo Tây học, “pác lê phăng xe” lầu lầu, qua bậc cửa vào nhà là phải chào hỏi thật đúng khuôn phép. Những thông phán, đốc học rất mực được trong vọng ở nhiệm sở, về nhà phải thi lễ rồi mới cởi khăn đóng áo dài hay veston, cravatte ra. Là bởi vì trong “ống” nào cũng có một bậc gia trưởng duy trì tinh thần hướng về nguồn cội. Không vị đó, thì phải lập ra thôi, dù “biểu tượng tinh thần” mới trong đầu có thể ngổn ngang chí hướng “ngoại lai”.
  Hà Nội, khu Ba sáu phố phường giờ còn nhan nhản nhà ống, nhờ chủ trương hạn chế việc xây cất,cải tạo của nhà chức trách. Thế nhưng có thể khẳng định đến 99,99% cấu trúc dân cư trong đó đã không còn như cách nay 60 năm, so với thời nhà ống ra đời lại càng xa cách. Chiến tranh, các thay đổi chính trị- xã hội tạo ra sự kẻ đến người đi. Cuộc cải tạo nhà cửa sau hoà bình khiến đa phần chính chủ rút lên gác, để lại cửa hiệu, tầng dưới cho “người Hà Nội mới”. Cả trăm tuổi rồi, nhiều ngôi đã xập xệ, dột nát, thậm chí nguy hiểm mà không sửa được, do nhiều chủ sở hữu quá (thông thường trên là tư nhân, dưới thời Nhà nước quản lí). Thế mà dường như lại có ai đó chủ trương khôi phục nhà ống truyền thống với sinh hoạt gia tộc như xưa. Thật không ổn. Ở vậy rất thiếu tiện nghi, bí rị, ngột ngạt, lại phải giả dối với nhau. ý hướng “về nguồn” ấy xuất phát từ một không gian biệt thự chăng? Hay người ấy muốn chỉ loại nhà ống mới, xây trên các lô đất trăm mét vuông trở lại?
3. Đến đây, lại phải nhắc đến một ý, nói mồm, nên có thể không chính xác lắm, của học giả mới quá cố Trần Quốc Vượng. Rằng, từ khi chuyển về đồng bằng định cư, đóng đô, người Việt chỉ giỏi đắp đê, trị thuỷ và tiến về phương Nam. Còn trong công cuộc khám phá, chinh phục, tiếp tục vươn ra biển để thông thương, hay đi đến tận cùng của một chủ thuyết, họ hay ngần ngừ, nghi ngại, sợ hãi sự hung hiểm của biển cả, không dám đi tiếp. Ông gọi đó là tâm lí “xa rừng nhạt biển”. Phải chăng đó cũng là tâm lí của người ở nhà ống truyền thống?

TTC-K3
(Tranh của Bùi Xuân Phái)

Thứ Ba, 29 tháng 12, 2009

Nửa vời nhà ống


Có những từ giờ người ta hay dùng nhưng khác hẳn nghĩa gốc, mà “gốc” chỉ mới mọc lên chừng hơn trăm, chừng vài chục năm nay, chứ nào phải Hán Việt xa xưa gì. Chẳng hạn “biệt thự”, vốn được hiểu là kiểu gì cũng phải có vườn, bây giờ “nới rộng” ra cho cả khu đất to chèn nhà kín, không còn chỗ cho cây mọc. “Nhà ống” bây giờ chỉ nhà lô, sản phẩm của cách chia đất theo điểm công chức của cơ quan nhà nước, chừng dăm chục mét vuông, thường hình chữ nhật, xây ba bốn tầng nhà cho một gia đình hai thế hệ ở. Không gian riêng cho từng cá thể, buồng vợ chồng, con cái, không gian chung – là bếp núc, phòng khách, chỗ thờ cúng… đều có cả. Vì kiểu gì cũng là mấy tầng nhà chồng nhau trên lô đất chữ nhật nên muốn kiểu cách gì thì muốn, đại thể cũng không thể phá cách, tưởng tượng nhiều quá. Quanh đi quẩn lại hàng xóm chỉ khác nhau cái chi tiết. Có những cái tên khá hay đặt cho nó: ”nhà công – ten – nơ” - nếu thẳng đuột từ trên sân thượng xuống, hoặc “bao diêm có mái”. Nhiều nhà loại này là quà của thời kì cuối cùng nhà nước phân đất cho công chức, rồi họ xây nên những “ngăn ở” khá tiện nghi trong đó. Ở đây, chỉ nói về loại nhà ống truyền thống xuất hiện cách nay hơn trăm năm trong khu Ba sáu phố phường Hà Nội, có người Tây gọi “maison de tunnel” - chứ không phải “ maison de tube”. “Nhà đường hầm” hay “nhà ống”, thôi thì cũng bí cả. Vâỵ mà nó lại là hình thái nhà đô thị chủ yếu của Hà Nội trong một thời gian dài.
  1. Nhà ống Hàng Đường Hàng Bạc Bát Đàn Bát Sứ thường hai tầng, tường gạch chịu lực xây xi măng, lợp ngói. Phần gỗ khá nhiều, nhất là sàn tầng trên, tức là pha giữa vật liệu Tây với các thứ ta trồng được. Thật nhiều chức năng chen nhau. Tầng dưới có cửa hiệu, giếng giời, những đợt nhà ngăn cách qua khoảng sân, là chỗ ở của từng gia đình thành viên. Thể nào cũng có khoảng không thông lên gác, lan can đủ thấp để câu hàng lên, đủ cao để trẻ con không ngã. Khám thờ kín mít, ít khi có cửa sổ. Vài ba mái ngói châu vào nhau, có miếng kính lấy ánh sáng. Không gian riêng ít, thành thử vợ chồng anh, em nghe, nhìn lẫn nhau, mẹ chồng riếc thì ba bốn nàng dâu cùng “quán triệt”. Đại gia đình ăn một mâm, xong các bà dành nhau rửa bát, kiểu “Chị để em!”- “Cô để đấy, tôi khoắng cái là xong ấy mà…”. Nhưng đố ai dám “nhường “ ngay. “Ăn “ nguýt là cái chắc!
   2. Ra đời thời thuộc địa, nhà ống Ba sáu phố phường phải dân có máu mặt mới xây sắm nổi, nghĩa là không buôn bán cũng phải công chức ra gì. Nhưng dù có máu mặt, mang tiếng dân hàng phố, họ đều còn họ hàng hang hốc dây dợ lằng dằng ở quê, tập tục, lề thói chưa xa với ngôi làng gốc rễ lắm. Nói nhà ống là sản phẩm của giai đoạn thuộc địa hoá, hình thành đô thị cũng đúng. Nhưng cũng đúng là nó bộc lộ sự nửa vời khi người đồng bằng sông Hồng chuyển lên quần cư ở Hà Nội, bỏ lại ruộng đất, nhà thờ, mồ mả ở quê cho họ hàng trông nom. Nói cách khác, nhà ống là cái gạch nối từ ngôi nhà gia tộc ở quê, thường hình chữ U, vài bốn, thậm chí dăm bẩy gia đình thành viên quây quần quanh từ đường, nay "chuyển lên" kiến trúc Tây, có nhiều buồng kín, thông nhau qua hành lang chung.
Đặc điểm của đô thị là các cá nhân rất độc lập, sống tuân thủ “phép vua” – tức luật pháp- hơn “lệ làng”, tức những quy ước, nề nếp ở hương thôn. “Ra tỉnh” tức là quan hệ cha con, họ hàng, làng xóm phải “bay đi ít nhiều”, nhường chỗ cho cẩm, “pu lít”. Bạ đâu cũng vứt rác, xây cất tuỳ ý là không được. Xóm giềng đụng nhau không phải cứ tuổi cao hay vai trên là có lí… Lại không thể có chuyện hè nhau “đánh bỏ mẹ thằng tổng trên đến ve gái làng ta” hay cậy gần nhà, bởi ra khỏi nhà là không phải “làng mình” nữa rồi. Và chào ông ấy bà nọ một câu, hôm sau gặp lại không thấy người ta hỏi trước cũng không thể trách cứ.
Những lối cư xử ấy, dù chưa thành chuẩn mực bắt buộc ngay, vẫn làm người mới thành anh tỉnh thành bị ngợp. Tâm lí co cụm nảy sinh. Các làng nghề hình thành trên cơ sở hợp tác kinh tế, như Đan Loan ra Hàng Đào, Đại Bái đến Hàng Đồng, Đồng Sâm ở Hàng Bạc…. Buôn có bạn bán có phường mà, chắc nơi nào trên thế giới cũng vậy. Nhưng thể nào trong sự kết bè ấy cũng phải có lí do co cụm. Tỉnh không sẵn thần linh, vả có cũng không phải vị của làng mình. Vậy thời không gì bằng lập lấy đình làng mới, đem thành hoàng gốc ra thờ. Bàn thờ họ, thờ tổ cũng bấy nhiêu hoành phi câu đối cuốn thư chép lại ở chốn cũ. Và rủ nhau, những họ hàng làng xóm ra cùng làm ăn, giúp việc. Giỗ chạt, hội làng không về quê, nhìn quanh, vẫn thấy người cùng quê, chả tin cậy, đầm ấm hơn à…
Nhưng sự “tìm về cội” ấy cũng có mặt hạn chế của nó. Đầm ấm quá thì tính cách khó bề phát triển. Cá nhân luôn thấy chật hẹp, bị ức chế trong khuôn phép thì khó sáng tạo. Sự sáng tạo luôn bắt nguồn từ một cá thể. Cái mới, trong một khoảng không ninh ních quy ước cộng đồng không dễ ló ra, có nhẽ “hơi bị giống “ mầm cây mọc từ đá. Anh thợ tài hoa nhưng lắm tài lắm tật, khi tìm tòi một mẫu hoa văn mới, liệu có qua mắt được ông trưởng phường kiêm trưởng họ trưởng tộc, kiêm luôn người bảo trợ, thầy nghề? Sau lưng bậc gia trưởng là một khối chắc nịch những quy ước đạo đức, cách cư xử của cộng đồng. Chỉ cần đem những khuyết điểm sinh hoạt ra soi, anh ta “thi” không đỗ là cái chắc.
Gia phong thì gần gụi. Xa tít tắp mới là phép nước. Vậy nên “Tây “ có câu “Hà Nội là cái làng lớn”. Lại một nhận xét khác thật “tây”: “ Sự hình thành trên cơ sở các làng nghề làm chậm quá trình đô thị hoá của Hà Nội”.

TTC-K3
(còn tiếp)
Minh họa: Hàng Buổm - tranh cắt giấy cũa Bùi Xuân Phái