Thứ Sáu, 20 tháng 8, 2010

HÀNH TRÌNH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG (2-Tiếp theo)

COI GIỚI VÔ HÍNH (2-Tiếp theo)

. Nhưng làm sao có thể thuyết phục những người Âu Mỹ vốn rất tự hào, nhiều thành kiến và tin tưởng tuyệt đối ở khoa học?.
Hamoud mỉm cười tiếp tục:
“Sự hiểu biết về cõi vô hình rất quan trọng. Vì khi hiểu rõ những điều “Chính thế, tôi tốt nghiệp năm 1864 và là người Ai Cập đầu tiên tốt nghiệp về nghành này”
(Ghi chú của giáo sư Spalding: Phái đoàn đã phối kiểm chi tiết này, và, có hồ sơ Đại học Oxford ghi nhận một tiến sĩ người Ai Cập tên Hamoud El Sarim, nhập học năm 1856 và tốt nghiệp năm 1864 với bằng tiến sĩ vật lý).
“Nhưng làm sao ông biết rõ được cảnh giới này?
Ông đã đọc sách vở hay dựa trên những bằng chứng ở đâu?”.
“Tôi đã khai mở các giác quan thể Vía nhờ công phu tu hành trong nhiều năm. Ngay khi còn là sinh viên, tôi đã say mê môn Vật lý siêu hình (Metaphysics). Tôi dành nhiều thời gian để nghiên cứu sách vở khoa học, nhưng đến một lúc thì khoa học phải bó tay. Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi đến khoa Huyền bí học. Tôi học hỏi rất kỹ về môn này. Khi trở về Ai Cập tôi may mắn gặp được các vị đại sư uyên bác, nên sự nghiên cứu càng ngày càng tiến bộ. Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi sang Ấn Độ và Tây Tạng. Tại đây, tôi gặp một Lạt ma chuyên nghiên cứu về cõi âm. Tôi đã học hỏi rất nhiều với vị này. Sau đó, tôi tu nhập thất trong 10 năm liền và khai mở được một vài giác quan đặc biệt. Từ đó tôi tha hồ nghiên cứu cõi âm, vì tôi có thể sang tận đây học hỏi và cõi này trở nên quen thuộc. Tôi kết bạn với nhiều sinh vật siêu hình, chúng giúp tôi rất nhiều…”
Giáo sư Evans Wentz ngập ngừng:
“Ông muốn nói rằng ông kết bạn với ma?”
“Dĩ nhiên, vì tôi dành trọn thời gian hoạt động bên cõi này nên tôi có rất đông bạn bè. Phần lớn là vong linh người quá cố, nhưng cũng có vài sinh vật có đường tiến hóa riêng, khác hẳn loài người. Có loài khôn hơn người và có loài không thông minh hơn loài vật là bao…”
“Giao tiếp với chúng có ích lợi gì không?”
“Các ông nên biết cõi âm là một thế giới lạ lùng, phức tạp, với những luật thiên nhiên khác hẳn cõi trần. Sự đi lại giao thiệp giúp ta thêm kiến thức rõ ràng…?
“Như thế có nguy hiểm không?”
“Dĩ nhiên, có nhiều sinh vật hay vong linh hung ác, dư tợn… Một số các thầy phù thủy thường liên lạc với nhóm này để mưu cầu lợi lộc, chữa bệnh hoặc thư phù, nguyền rủa…”
“Ông có làm như vậy không?”
Vị pháp sư nghiêm mặt:
“Tất cả những việc có tính phản thiên nhiên, ngược luật tạo hóa đều mang lại những hậu quả không tốt. Mưu cầu lợi lộc cho cá nhân là điều tối kị của những người đi trên đường đạo. Tôi không giao thiệp với những loại vong linh này vì chúng rất nguy hiểm, hay phản phúc và thường giết chết kẻ lợi dụng chúng bất cứ lúc nào. Các ông nên nhớ, tôi là một khoa học gia chứ không phải một thầy pháp hạ cấp, hay một phù thủy chữa bệnh”.
“Xin ông nói rõ hơn về cảnh giới âm”.
“Các ông nên biết, dù ở cõi nào, tất cả cũng không ra ngoài các định luật khoa học. Thí dụ như, vật chất có ba thể: Thể lỏng, thể rắn và thể hơi; bên cõi này cũng có những thể tương tự. Luật thiên nhiên cho thấy, vật nặng sẽ chìm xuống, vật nhẹ nổi lên trên. Cõi vô hình cũng thế, nguyên tử rung động với tần số khác với cõi trần, các nguyên tử rung động rất nhanh dĩ nhiên phải nhẹ hơn các nguyên tử nặng trọc. Tóm lại, tùy theo nhịp độ khác nhau, có bảy loại rung động, nên có bảy cõi giới. Các nguyên tử rung động chậm phải chìm xuống dưới, vì nếu ta mang nó lên cao sức ép sẽ làm nó tan vỡ ngay. Thí dụ, ta đặt một quả bóng xuống nước, nếu đến một độ sâu nào đó, sức ép của nước sẽ làm cho nó vỡ tan. Loài cá cũng thế, có loại sống gần mặt nước, có loại sống dưới đáy đại dương. Nếu loại sống gần mặt biển bị mang xuống đáy nó sẽ bị sức ép mà chết. Ngược lại, loài sống dưới đáy cũng không thể lên sát mặt nước được, vì đã quen với sức ép khác. Cõi giới thứ bảy lúc nào cũng tối tăm, nặng nề, với các vong linh hình dáng ghê rợn. Nhưng hoàn toàn không có vụ quỷ sứ tra tấn tội nhân. Bị lưu đày ở đây là khổ sở lắm rồi. Các ông hảy thử tưởng tượng bị dục vọng hành hạ mà không thể thỏa mãn thì còn khổ gấp trăm lần bị tra tấn. Vong linh thèm muốn nhưng không sao thỏa mãn được, như đói mà không thể ăn, khát nhưng không thể uống. Do đó, theo thời gian, y sẽ phải học bài học chịu đựng, nhẫn nhục, cho đến khi dục vọng giảm bớt và tan ra thì y sẽ thăng lên cảnh giới thứ sáu.
Cõi thứ sáu có sự rung động rất giống với cõi trần. Tại đây, các vong linh ít còn thèm muốn vật chất như ăn uống, dục tình, nhưng bận tâm với những nhỏ nhen của cuộc sống như thỏa mãn bản ngã, ích kỷ, ghen tuông, hờn giận…
Đa số có hình dáng giống như người cõi trần, nhưng lờ mờ không rõ. Vì sự rung động gần giống như cõi trần nên họ hay trở về cõi này. Họ thường nhập vào đồng cốt, các buổi cầu cơ, cầu hồn để chỉ dẫn bậy bạ, nói chuyện vu vơ nhằm thỏa mãn tự ái, bản ngã cá nhân. Vì đa số vong linh khi còn sống rất ham mê danh vọng, chức tước, uy quyền nên khi nhập vào đồng cốt họ thường tự xưng là các đấng này, đấng nọ. Theo thời gian, các rung động ham muốn, các cố chấp về bản ngã, danh vọng cũng tan biến nên họ thăng lên cảnh giới thứ năm.
Cõi giới thứ năm có sự rung động thanh nhẹ hơn cõi trần nên vong linh có thể biến đổi sắc tướng rất nhanh. Đây là một thế giới với những âm thanh, màu sắc lạ lùng, dễ bị mê hoặc. Các vong linh ở đây đã bớt ham muốn về cá nhân, nhưng còn ham muốn về tư tưởng, kiến thức. Đây là nơi cư ngụ của những kẻ đạo đức giả, những kẻ bảo thủ, nhiều thành kiến, những trí thức tự phụ…
Đây cũng là cõi có những sinh hoạt của loài Tinh Linh. Những sinh vật vô hình có hình dáng hao hao giống như người mà ta thường gọi là Thiên Tinh (Sylphes), Thổ Địa (Gnormes), Phong Tinh (Elfs)… Một số bị thu phục bởi các phù thủy, pháp sư để làm ảo thuật hay luyện phép. Cõi này có sự hiện diện của những “Hình tư tưởng” (Artificial Elements). Các ông nên biết, khi một tư tưởng hay dục vọng phát sinh thì chúng sử dụng tinh chất (Essence) cõi này tạo nên một hình tượng tư tưởng thích hợp. Đời sống của chúng tùy theo sức mạnh của tư tưởng mạnh hay yếu. Vì đa số tư tưởng con người còn mơ hồ nên hình tư tưởng chỉ tạo ra ít lâu là tan rã ngay. Một người tập trung tư tưởng có thể tạo ra một hình tư tưởng sống lâu trong vài giờ hay vài ngày. Một pháp sư cao tay có thể tạo ra các hình tư tưởng sống đến cả năm hay thế kỷ. Không những thế, hình tư tưởng này còn chịu sự sai khiến của ông ta. Các phù thủy luyện thần thông đều dựa trên nguyên tắc cấu tạo một sinh vật vô hình để sai khiến. Hình tư tưởng không chỉ phát sinh từ một cá nhân mà còn từ một nhóm người hay một quốc gia, dân tộc. Khi một đoàn thể, dân tộc cùng một ý nghĩ, họ sẽ tạo ra một hình tư tưởng của toàn thể quốc gia đó. Hình tư tưởng này sẽ tạo một ảnh hưởng vô hình rộng lớn đối với tình cảm, phong tục, thành kiến của quốc gia, dân tộc. Ta có thể gọi đó là “Hồn thiêng sông núi” hay “Dân tộc tính”.
Khi sinh ra tại một quốc gia, ta ít nhiều chịu ảnh hưởng của hình tư tưởng này. Dĩ nhiên, chúng ta chỉ ảnh hưởng lên thể Vía, nghĩa là tình cảm của dân tộc đó chứ không ảnh hưởng đến lý trí. Một người sống nhiều bằng lý trí sẽ ít chịu ảnh hưởng như người bình thường. Điều này giải thích tại sao một dân tộc có tâm hồn mơ mộng như thi sĩ, trong khi dân tộc khác lại có đầu óc thực tế, mặc dù trên phương diện địa lý, họ không ở cách xa nhau mấy và ít nhiều chia sẻ một số quan điểm về tôn giáo, phong tục, tập quán.
Cõi giới thứ tư sáng sủa hơn và dĩ nhiên nguyên tử cõi này rung động rất nhanh. Phần lớn những vong linh tiến hóa, thánh thiện, những nhà trí thức trầm mặc nhưng còn quyến luyến một ít dục vọng khi chết đều thức tỉnh ở cảnh giới này.
Đa số đều ý thức ít nhiều nên họ bắt đầu cởi bỏ những ham muốn quyến luyến. Đây cũng là chỗ học hỏi và ảnh hưởng lẫn nhau và đôi khi liên kết những liên hệ để cùng nhau tái sinh trong một gia đình hay một quốc gia.
Cõi giới thứ ba chói sáng, có những rung động nhẹ nhàng. Tại đây, có những linh hồn từ tâm nhưng vụng về, những tu sĩ thành tâm nhưng thiếu trí tuệ, những nhà lãnh đạo anh minh nhưng thành kiến. Đây cũng là cảnh giới của một số thần linh (Devas) như Cảm Dục Thiên Thần (Kamadeva), Hữu Sắc Thiên Thần (Roupadeva) và Vô Sắc Thiên Thần (Aroupadeva). Các thần linh này có đời sống và tiến hóa cao hơn trình độ nhân loại.
Cõi giới thứ hai và thứ nhất cấu tạo bằng những nguyên tử hết sức thanh thoát, rung động rất nhanh và tràn đầy ánh sáng. Đây là cõi giới mà những người tiến hóa cao, rất tế nhị, không còn dục vọng, ham muốn lưu lại để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, phát triển các đức tính riêng trước khi siêu thoát lên cõi giới cao hơn”.

Ghi thêm: Hôm qua trục trặc mải, phải hỏi TL hướng dẫn mới đăng bài được nên không báo với bạn đọc là còn nữa. Minh cũng muốn đặt tiêu đề riêng từng đoạn, nhưng thấy hơi khó vì độ dài các đoạn không bằng nhau. Hơn nữa như thế thì quá dài, chả ai muốn xem.

HÀNH TRÌNH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG

Văn Trung thắc mắc

   Văn Trung (Trung 'lột' ) thắc mắc : sao dịp này không thấy bạn nào trong Nam ra chơi như mọi năm. Xe cộ đã sẵn sàng, mọi người đều đã lên kế hoạch thu xếp thời gian xong xuôi chuẩn bị tiếp đón .Thế rồi đợi,đợi... mãi,hết tháng 7 sang tháng 8  mà vẫn không thấy ai. Hay là lại dồn hết vào tháng 10 rồi ?
   Vẫn biết trong đó có biển Vũng tầu,biển Mũi Né , nhưng ngoài này cũng có biển Đồ Sơn,Biển Hải Thịnh,biển Quất lâm...đẹp không kém mà phong cách riêng còn rất ấn tượng nữa.
   Năm ngoái Tu Lì ra Hà Nội,anh em ngoài này đưa đi du ngoạn,vui ra phết.

Thứ Năm, 19 tháng 8, 2010

HÀNH TRÌNH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG

CÕI GIỚI VÔ HÌNH

Tôi có đọc một cuốn sách mang tựa đề “HÀNH TRÌNH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG”. Cuốn sách này xuất bản không chính thức vì không thấy có tên nhà xuất bản. Tuy nhiên khi đọc xong tôi thấy có một số vấn đề hay hay nên muốn gửi lên blog để các bạn xem cho vui. Tôi muốn đăng dẫn lại nguyên bản mà không biên tập nên hơi dài, bạn nào có điều kiện thì tham khảo cho ý kiến.
Tóm tắt phần trên: Một phái đoàn ngoại giao do tiểu vương Ranjit Singh cầm đầu sang thăm viếng nước Anh. Tại Đại học Oxford, có một đạo sĩ biểu diễn đã làm đảo lộn các quan niệm bình thường. Ông ta có thể uống tất cả mọi chất hóa học, kể cả những chất cường toan cực mạnh và có thể nhịn thở hàng giờ. Ông ta còn chui vào quan tài để bị chôn sống 48 ngày… Do vậy Hội khoa học Hoàng gia đã phái một đoàn gồm nhiều nhà khoa học có tên tuổi sang Ấn Độ quan sát, sưu tầm, tường trình và giải thích những hiện tượng huyền bí. Khi ra đi họ không mấy tin tưởng, nhưng khi trở về họ đều đổi khác. Giáo sư Spanding (người viết cuốn sách này) phát biểu: “Phương Đông có những chân lý quan trọng đáng để cho người Tây Phương nghiên cứu, học hỏi. Đã đến lúc người Tây Phương phải quay về Đông Phương để trở về với quê hương tinh thần”.
Các chương trước kể về nhưng cuộc gặp gỡ với nhiều nhân vật siêu phàm, mỗi người một lĩnh vực. Bạn nào quan tâm nên tìm sách để đọc cho hoàn chỉnh. Theo tôi nghĩ nó có thể nằm trong trang “VN thư quán”. Với trang Blog, tôi không thể đưa lên cả quyển sách mà chỉ trích một chương nói về ma quỷ, sống chết, đầu thai, tôi nghĩ chắc nhiều người thường xuyên có suy nghĩ, trăn trở về những điều này nên gởi lên mạng để mọi người xem cho vui. Mong các bạn chia sẻ.

CHƯƠNG TÁM
CÕI GIỚI VÔ HÌNH

Hamoud là một pháp sư có kiến thức rộng rãi về cõi vô hình. Khác với những đạo sĩ phái đoàn đã gặp, ông này không phải là người Ấn mà là người Ai Cập.
Ông ta sống một mình trong căn nhà nhỏ, xây dựa vào vách núi. Hamoud không hề tiếp khách nhưng trước sự giới thiệu của bác sĩ Kavir, ông bằng lòng tiếp phái đoàn trong một thời gian ngắn. Vị pháp sư có khuôn mặt gầy gò, khắc khổ và một thân hình mảnh mai. Ông khoác áo choàng rộng và quấn khăn kiểu Ai Cập.
Giáo sư Evans Wentz vào đề.
“Chúng tôi được biết ông chuyên nghiên cứu các hiện tượng huyền bí…”
Pháp sư thản nhiên: “ đúng như thế, tôi chuyên nghiên cứu về cõi vô hình.”
“Như thế ông tin rằng có ma?”
“Khắp nơi trên thế giới đều có các giai thoại về ma. Vì con người sợ hãi một cái gì đó mà họ không nhận thức bằng giác quan thông thường nên họ đã phủ nhận nó. Sự phủ nhận này mang đến sự sợ hãi, từ đó họ thêu dệt các giai thoại rùng rợn, không đúng sự thật. Nếu chúng ta chấp nhận chúng hiện hữu như một con voi hay con ngựa thì có lẽ ta sẽ không còn sợ hãi. Các ông đòi một chứng minh cụ thể chăng?”
“Dĩ nhiên, chúng tôi cần một bằng chứng hiển nhiên…”
“Được lắm, các ông hãy nhìn đây.”
Vị pháp sư mở ngăn kéo lấy ra một cặp que đan áo, một bó len và mang ra góc phòng để xuống đất. Ông ta thong thả:
“Chúng ta tiếp tục nói chuyện, rồi các ông sẽ thấy”.
Mọi người ngơ ngác, không hiểu ông ta muốn nói gì. Giáo sư Moritmer nóng nẩy:
“Nếu nghiên cứu về cõi vô hình, xin ông giải thích về quan niệm Thiên đàng, Địa ngục, cũng như đời sống sau khi chết ra sao?”
Vị pháp sư nghiêm giọng:
“Đó là một quan niệm không đúng, sự chết chỉ là một giai đoạn chuyển tiếp chứ không phải là hết. Vũ trụ có rất nhiều cõi giới chứ không phải chỉ có một cõi này. Quan niệm về Thiên đàng hay Địa ngục chỉ là những biểu tượng chứ không có vụ quỷ sứ hành hạ tội nhân, hoặc thiên thần có cánh bay vòng quanh. Các biểu tượng thường bị hiểu nhầm bởi quan niệm cá nhân. Tôi cố gắng trình bày nghiên cứu của tôi như sau:
“Khi chết ta bước qua cõi trung giới. Cõi này gồm có bẩy cảnh khác nhau, mỗi cảnh được cấu tạo bằng những nguyên tử rất thanh mà ta gọi là chất “Dĩ thái”. Tùy theo sự rung động (vibration) khác nhau mà mỗi cảnh giới (Astral phane) một khác. Tùy theo vía con người có sự rung động thanh cao hay chậm đặc mà mỗi người thích hợp với một cảnh giới. Đấy là hiện tượng “đồng thanh tương ứng” mà thôi. Khi vừa chết, thể chất cấu tạo nên vía được sắp xếp lại, lớp thanh nhẹ nằm trong và lớp nặng trọc bọc phía ngoài. Điều này cũng giống như một người mặc nhiều áo khác nhau vào mùa lạnh, áo lót mặc ở trong, áo khoác dày mặc ngoài.
Vì lớp vỏ bên ngoài cấu tạo bằng những nguyên tử rung động chậm và nặng nề, nó thích hợp với các cảnh giới tương ứng ở cõi âm và con người sẽ đến với cảnh giới này. Sau khi ở đây một thời gian, lớp vỏ bao bọc bên ngoài dần tan rã. Giống như con người trút bỏ áo khoác bên ngoài ra. Tùy theo các lớp nguyên tử bên trong mà họ thích ứng với một cảnh giới khác. Cứ như thế, theo thời gian, khi áp lực vật chất tan rã hết thì con người tuần tự tiến lên những cảnh giới cao hơn. Điều này cũng giống như quả bóng bay được cột các bao cát, mỗi lần bỏ bớt một bao thì quả bóng bay cao lên một chút. Cho đến khi không còn bao cát nào thì nó sẽ tự do bay bổng. Trong bảy cảnh giới của cõi âm thì cảnh thứ bảy có rung động nặng nề nhất, âm u nhất. Nó là nơi chứa các vong linh bất hảo, những kẻ sát nhân, người mổ súc vật, những cặn bã xã hội, những kẻ tư tưởng xấu xa còn đầy thú tính. Vì cõi âm không có thể xác, hình dáng thường biến đổi theo tư tưởng nên những kẻ thú tính mạnh mẽ thường mang các hình dáng rất ghê rợn nửa người, nửa thú. Những người thiếu kiến thức rõ rệt về cõi này cho rằng đó là những quỷ sứ. Điều này không sai sự thật là bao nhiêu. Vì đa số những vong linh này luôn luôn oán hận, ham muốn, thù hằn và thường tìm cách trở về cõi trần. Tùy theo dục vọng riêng tư mà chúng tụ tập quanh các nơi thích ứng. Dĩ nhiên người cõi trần không nhìn thấy chúng được. Những loài ma đói khát quanh quẩn bên các chốn trà đình, tửu quán, các nơi mổ xẻ súc vật để tìm cách rung động theo những khoái lạc vật chất tại đây. Khi một người ăn uống ngon lành, họ có các rung động, khoái lạc của loài ma tìm cách hưởng thụ theo tư tưởng này. Đôi khi chúng cũng tìm cách ảnh hưởng, xúi dục con người nếu họ có tinh thần yếu đuối, non ớt. Những loài ma tình dục thì quanh quẩn nơi buôn hương, bán phấn, rung động theo những khoái lạc chốn đó và tìm cách ảnh hưởng họ. Nếu người sống sử dụng rượu, các chất kích thích, thì ngay trong giây phút mà họ không tự chủ được nữa, các loài ma tìm cách nhập vào trong thoáng giây để ảnh hưởng một chút khoái lạc vật chất dư thừa.
Vì không được thỏa mãn nên theo thời gian các dục vọng cũng giảm bớt dần. Các nguyên tử nặng, trọc cũng tan theo. Vong linh sẽ có các rung động thích hợp với một cảnh giới cao hơn và y sẽ thăng lên theo cõi tương ứng.
Dĩ nhiên, một người có đới sống trong sạch, tinh khiết sẽ không lưu ở cõi này mà thức tỉnh ở một cõi giới tương ứng khác. Tùy theo lối sống tư tưởng khi ta còn ở cõi trần, mà khi chết, ta đến những cảnh giới tương ứng. Đây chính là quy luật “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”.
Toàn thể phái đoàn im lặng nhìn nhau. Vị pháp sư Ai Cập đã diễn tả bằng những danh từ hết sức khoa học, chính xác chứ không mơ hồ, viển vông. Dù sao đây vẫn là một lý thuyết rất hay, nhưng chưa chứng minh được. Có thể đó là một giả thuyết của những dân tộc nhiều tưởng tượng như người Á châu chăng?.
Hamoud mỉm cười như đọc được tư tưởng mọi người: “Các ông biết rằng, tôi cũng là một tiến sĩ Vật lý (Physics), tốt nghiệp Đại học Oxford…”
Giáo sư Harding giật mình kêu lên:
“Oxford ư? Ông đã từng du học bên xứ chúng tôi sao?”.

Thứ Tư, 18 tháng 8, 2010

19/08/1945 - Tổng khởi nghĩa Hà Nội



Mít tinh tại Quảng trường Nhà Hát Lớn sáng 19/08/1945         


                                   Chiếm Bắc Bộ Phủ sáng 19/08/1945   

Wikipedia.Tinh mơ sáng ngày 19 tháng 8, hàng chục vạn người dân ở Hà Nội và các tỉnh lân cận theo các ngả đường kéo về quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội. Khoảng 10 giờ rưỡi, cuộc mít tinh lớn chưa từng có của quần chúng cách mạng được sự bảo vệ của Thanh niên tự vệ, của tổ chức Việt Minh Hoàng Diệu Hà Nội đã diễn ra. Đại diện Việt Minh tuyên bố: Tổng khởi nghĩa! Sau đó một cánh tiến thẳng tới Phủ Khâm Sai, cơ quan đầu não của chính phủ, và nhanh chóng làm chủ toàn bộ khu vực này. Lính bảo vệ Phủ đã hạ vũ khí mà không có bất kỳ hành động kháng cự nào trước sức mạnh của nhân dân Hà thành. Khâm sai Bắc kỳ Nguyễn Xuân Chữ (người mới đứng ra thay thế ông Phan Kế Toại) bị bắt giữ và đưa về An toàn khu tại Hà Đông.
Cùng thời gian đó, ông Nguyễn Quyết đã chỉ huy nhân dân chiếm Trại Bảo an binh. Nhưng quân đội Nhật đã can thiệp, đưa xe tăng cùng binh lính bao vây quanh trại, đòi tước vũ khí của lực lượng cách mạng. Ông Nguyễn Khang và ông Trần Tử Bình đã quyết định tiến hành đàm phán với quân đội Nhật vì theo phân tích thì quân Nhật đã rất rệu rã, không còn tinh thần chiến đấu cao và muốn bảo toàn lực lượng khi rút về nước. Hơn nữa nếu quân đội Nhật cố ngăn cản thì cũng không được lợi ích gì vì bản thân chính quyền do họ dựng lên quá yếu ớt, không thể đối trọng với sức mạnh của Việt Minh. Đúng như dự đoán, sau khi tiếp nhận đề nghị của Ủy ban Khởi nghĩa, Nhật đã đồng ý rút quân nhưng yêu cầu phải có một cuộc đàm phán chính thức với cấp chỉ huy tối cao của họ.
Chiều tối 19 tháng 8, phái đoàn của đàm phán của Việt Minh do ông Lê Trọng Nghĩa và cố vấn Trần Đình Long dẫn đầu đã trực tiếp gặp gỡ và đàm phán với tướng Tsuchihashi - Tổng tư lệnh kiêm Toàn quyền Nhật - ngay tại Tổng hành dinh quân đội Nhật (nay là 33 Phạm Ngũ Lão). Cuộc đàm phán diễn ra khá gay go nhưng cuối cùng phía Nhật, đúng như đã được dự đoán, đã chấp nhận án binh bất động, không can thiệp vào công việc của Việt Minh; đổi lại binh lính của họ sẽ được bảo đảm an toàn, không bị Việt Minh tấn công. Họ đã chấp nhận chính quyền cách mạng. Kết quả đàm phán với Nhật mang ý nghĩa quyết định cho thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa Hà Nội bởi phe Việt Minh đã không chỉ tránh được cuộc đối đầu trực tiếp với lực lượng vũ trang của Nhật mà còn loại trừ mọi hy vọng của các lực lượng chính trị khác vào khả năng đảo ngược tình thế tại thủ đô vào thời điểm đó.
Cũng trong đêm 19 tháng 8, Xứ ủy quyết định thành lập Uỷ ban Nhân dân cách mạng Bắc bộ và Uỷ ban Nhân dân cách mạng Hà Nội, chính thức hoá vai trò của chính quyền cách mạng với nhân dân và cộng đồng quốc tế.
Ngày 20 tháng 8, khoảng 10 giờ 30 sáng, Ủy ban Nhân dân Cách mạng Bắc Bộ, đại diện cho chính quyền cách mạng lâm thời, đã chính thức ra mắt quốc dân đồng bào tại Vườn hoa Con Cóc trước Bắc Bộ phủ.
Ngày 21 tháng 8 tại Huế phong trào Việt Minh bừng nổi dậy. Tướng tư lệnh Nhật đã nhận được chỉ thị của Đông Kinh phải giữ ngôi cho Hoàng đế Bảo Đại, đã bàn với Thủ Tướng Trần Trọng Kim như sau: "Mặc dù nước Nhật đã đầu hàng nhưng quân đội Nhật tại đây vẫn có nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự cho tới khi quân đội Đồng minh đến tiếp thu. Xin ngài hãy làm văn thư yêu cầu để chúng tôi tái lập trật tự." nhưng Thủ Tướng đã từ chối sự giúp đỡ của họ.
Đại tướng Nhật cũng vào yết kiến vua Bảo Đại xin tái lập trật tự để bảo vệ ngai vàng nhưng cũng bị từ chối.
Thắng lợi ở Hà Nội lập tức kéo theo một sự rung động và làm tan vỡ hệ thống chính quyền thân Nhật ở toàn vùng. Các tỉnh trưởng, thị trưởng Hải Phòng, Nam Định, Bắc Ninh, Thái Nguyên... đang ngóng trông tin từ Hà Nội, phải vội vàng chuyển sang tìm gặp và theo Việt Minh ở địa phương. Ngày 23 tháng 8, chính quyền cách mạng ở Hải Phòng được thành lập.