Thứ Bảy, 25 tháng 12, 2010
Thứ Tư, 22 tháng 12, 2010
KHÓA3 HÀ NỘI kỷ niêm 22 thang12
Bài hát theo yêu cầu
Các House Of The Rising Sun Display: Declan Galbraith
(Theo required Chí Nhân K3)
Có một ngôi nhà ở New Orleans
Nó được gọi là Rising Sun
Đó là sự hư hại nhiều một cậu bé nghèo
Và Chúa biết về một
Nếu ông đã nghe những gì bố nói
Anh sẽ là một vị vua ngày nay
Nhưng anh biết tốt nhất, những gì ông nên làm
và ông đã được trên đường
Ông nhanh chóng trở thành một "người đàn ông Travellin
Anh ấy đi từ thị xã đến thị trấn
Con đường anh đã là tốt với anh ta
cho đến khi uống rượu của mình xuống
Sau đó, anh ta tỉnh dậy * tại ba mươi lăm *
Realised những gì ông đã làm
Remembered là cha những gì nói
'bout House of the Rising Sun
có một ngôi nhà ở New Orleans
Nó được gọi là Rising Sun
* Và * nó được sự hư hại nhiều một cậu bé nghèo
Và Chúa biết về một
Và Chúa Tôi biết một
Có tôi
tôi thực sự biết
tôi biết một
Có tôi
tôi biết một, phải
Thứ Ba, 21 tháng 12, 2010
Chủ Nhật, 19 tháng 12, 2010
Ngày QDNDVN 2010.
Thứ Năm, 9 tháng 12, 2010
Bài hát theo yêu cầu
Use cu Latin mirror
To mong moi wait to wait
To width Chương NÂNG Ngưu
and number of the tan vo
book cu Latin mirror
To tháng day hoa mộng
To Hen Hồ ask Đường
And Khắc Khoái wait for various
book for em for em
roi nhin em nhin em
and Nam Tây Nam Tây
Chợ Hòn em Ngát NGAY
Chi có thể anh nhin em
la tim em Disassemble shifted
Chi có thể anh Nam Tây
La Hồn em Đàm nói
Em do not like as a Vợ
could not like that anh Chong
is only you want to ask you want to remember
Search for various within mơ
Dung that is the Vợ Chong
roi nhin various chán Ngân
book cu Latin mirror
To their ta mệnh Mông.
Thứ Ba, 7 tháng 12, 2010
Tâm sự bè bạn
Sự “để đời”
Thứ Năm, 2 tháng 12, 2010
Bài hát theo yêu cầu
Sáng tác: Nguyên Nhung
(Theo yêu cầu của Tạ Việt Chiến K3 và Lê tiến Dũng K3 )
Dừng chân bên suối võng đưa
Nhìn trời cao trong xanh lồng lộng
Bông hoa rừng thơm mát, phải đất nước cho ta
Mẹ yêu con gửi tình trong hoa bát ngát
Võng theo ra chiến trường
Võng theo ta giải phóng
Tổ Quốc ơi! Muôn năm vững bền hai đầu
Cho quê ta hết giặc, Bao em thơ yên ngủ
Về anh ru dưới bóng dừa
Chiều Trường Sơn dào dạt võng đưa
Rừng ru ta thân yêu như quê nhà
Như con thuyền trên bến đợi rẽ sóng trùng khơi
Về dưới xuôi, đồn thù bốc cháy nơi nơi
Võng theo ra chiến trường
Võng theo ta giải phóng
Tổ Quốc ơi! Muôn năm vững bền hai đầu
Lời ru xưa vỗ về Lời ru nay thúc giục
Rộn lòng ta ra chiến trường
Thứ Ba, 30 tháng 11, 2010
Những kỷ niệm không quên
Trường mình hiện hữu có 5 năm, thời gian như vậy quả là không nhiều so với tuổi thọ của hàng trăm hàng nghìn mái trường được sinh ra trên đất nước này; Ấy mà 50 năm sau và có thể còn lâu hơn nữa, anh em ta vẫn nhớ nhung “nó”, nhắc tới “nó” với những tình cảm yêu thương trìu mến như đó chính là nơi chôn nhau cắt rốn của mình vậy. Cuộn sống ở đó đã cho ta trải, nếm đủ các dư vị của cái tuổi đầu đời: Hùng tráng có, bi tráng có và (tạm gọi) hài tráng cũng có.
Vậy thử nhớ lại xem nhé. Tuy có thể sai lệch đôi chút nhưng tôi xin cam đoan những gì mình nói, những gì mình nghĩ là đúng với bản chất của vấn đề, còn hình thức diễn đạt thì có chút khác biệt, chắc cũng chả có gì nghiêm trọng lắm phải không các bạn nhỉ?
Anh em Trỗi nhà mình (ăn chung, ở chung, vui chung, khổ chung, thì là “nhà mình” chứ còn gì nữa) ngoài ba cái vụ bị ghẻ lở, hắc lào nó hành, rồi những đợt dịch viêm màng não tấn công, đến nỗi ai cũng phải uống hàng vốc Sunfamir trắng xóa, hàng tô quán-chúng đen sì, thì còn một cái chứng nữa nó hành mình cũng không kém. Đó là căn bệnh “đói liên miên”, mà may ra sau này được sang nước bạn tá túc thì tự nhiên anh em mình hết “bệnh”. Ngoại trừ những bữa “Vì miền Nam ruột thịt” do trường phát động, chỉ có cơm với muối vừng, nhưng thực ra không hề hấn gì vì cả tuần mới có một buổi ăn nhạt chứ mấy, hôm sau ăn bù là được.
Tôi còn nhớ mang máng thực đơn theo lịch của bếp ăn đại đội là (những món chủ chốt):
Thứ hai: Thịt heo luộc chấm xì dầu.
Thứ ba: Canh hành tía củ to nấu với thịt hoặc cá.
Thứ tư: Thịt heo kho + canh cải (cải gì thì không nhớ lắm).
Thứ năm: Thịt gà luộc + đậu phụ chấm mắm tôm
v.v và v.v …nghĩa là thay đổi món ăn hàng ngày để khỏi chán. Đúng là hậu phương lớn có khác.
Ăn sáng thì hôm nay ăn cơm rang, sáng mai xôi và chè nhé, ngày kia bánh bao và cháo trắng nè, v.v …Quả là no xôi chán chè thực không có sai.
Ăn thì bằng tô bằng thìa. Một cái tô xúc đầy bằng 3 chén cơm. Nhét cho 2 tô thì ễnh bụng. Ăn mâm này xong lại còn được phép la cà tới mâm khác để vừa trò chuyện vừa ăn dùm bạn, thật là khoái hết chỗ khoái, no ơi là no, chẳng bù cho cái hồi còn … tại vị trong nước.
Này nhé, chúng tôi hồi đó hầu như đói kinh niên, đói mãn tính vì đang tuổi ăn tuổi lớn. Nhìn thứ gì mà bỏ được vào miệng mà không chết là bỏ liền. Từ trái bưởi (có khi mua, có khi xin, và có khi ăn trộm) đến mít, khế và cả mấy quả ổi xanh lè, cũng xơi tuốt bất chấp hậu quả ra sao, có táo bón hay táo tàu gì cũng mặc kệ, miễn là no cái đã.
Có một kỷ niệm nhỏ, bây giờ mới dám thú nhận, dám vạch áo cho người xem lưng. Phiên gác đêm hồi ấy của đại đội thường là 2 người 1 ca. Tôi và Lê Cảnh Nghĩa (xin lỗi Nghĩa nhé, không ai truy cứu nữa đâu, lâu quá rồi, mà để lâu thì … cứt trâu cũng hóa bùn …) được phân công một ca trực, vũ khí được trang bị thời gian đầu còn thô sơ lắm, chỉ có dao quắm và …gậy, còn đèn pin thì tự túc. Ước gì có được cái đèn pin của Dũng “gỗ” nhỉ, hàng độc đấy, là đèn 3 pin, bấm lên sáng quắc cả một vùng; có nó thì chả sợ thằng nào, con nào nhé. Hai đứa đi một vòng đại đội thì về giải lao, đứng ngay bên chái bếp. Cửa bếp khóa, tò mò và đói, tôi leo vào theo lối cửa sổ. Dưới ánh sáng lờ mờ, một cái xoong nhôm đậy nắp được để hơi riêng ra một chỗ, tôi kiểm tra ngay. Trúng mánh rồi, liền gọi Nghĩa vào và 2 thằng (ăn trộm) tay thì bốc, miệng thì nhóp nha nhóp nhép. Đã là ăn vụng mà lại là thịt gà thì còn gì bằng. Đúng là miếng ngon nhớ đời. Nhưng cũng không dám ăn nhiều, vì biết sợ, nhỡ ra mấy ông đại đội phát hiện được thủ phạm thì ngượng lắm. Đói là thế nhưng cũng có lúc ễng bụng. Đó là vào những ngày chủ nhật, một số bạn có gia đình lên thăm, tất nhiên bọn nó sẽ không ăn cơm đơn vị. Vậy thì ba, bốn người sẽ được ăn mâm cơm dành cho 6 người. Lâu lâu cũng ấm chân răng là thế. Thật tội cho bạn Trịnh Thành Công, vì lý do nào đó Công ăn rất chậm, ngồi giữa 5 cái tàu há mồm lại không khách sáo gì thì bạn đói là cái chắc. Thế là có sáng kiến chia cho Công riêng một phần, nhưng cũng thỉnh thoảng thôi, vì sợ bạn tự ái. Vì thiếu ăn (đang còn chiến tranh mà) nên vóc dáng bọn mình cũng “oằn” lắm, đứa nào cũng độ 45, 50 ký cả quần và áo là cùng, nên khi ra suối tắm, thằng này chê thằng kia cũng là thường. Nhưng cũng có ngoại lệ, có anh bạn cũng to con lắm, phải trên 60 ký, vòng ngực hơn 90. Đó là Dương Thanh. Dĩ nhiên các thứ khác cũng phải đồng bộ chứ. Nếu nói theo kiểu bây giờ thì cũng thuộc hàng top ten đấy, chả thế mà bạn lại có ngoại hiệu là Thanh u – ko tu. Mà nghe tin chầu rìa thì giờ này hắn chỉ còn ở top 100 thôi. Không biết có đúng không? Hay là vì “ con gà tức nhau tiếng gáy” nên tụi nó phịa ra!? Hay như Phan Chí Đỉnh cao gần 1m8, để đỡ thấy cao nên anh em sửa tên lại là Phan Chí Chóp …
Đã là lính thì phải biết hành quân. Đã là bộ đội thì đâu cũng là nhà mình. Bầm, bu, thầy nào cũng là bầm, bu, thầy của mình và quan trọng hơn là đi thì dân phải nhớ, ở thì dân thương. Bọn lính Trỗi ăn chưa no, lo chưa tới, không biết có làm nổi được cái việc lớn lao ấy không?
Thời gian đầu về ở quân khu Tả Ngạn – Chí Linh – Hải Dương, chúng ta chưa được nhập ngũ, chưa thành anh bộ đội chính hiệu, mặc dù quần áo trang bị là của lính nhưng chưa được gắn sao vàng trên mũ, chưa có quân hàm, quân hiệu, thì cái việc “vì nhân dân” của mình chắc cũng còn non kém lắm.
Tôi và Tài Chí được phân công về ở một nhà dân. May là nhà không có con gái lớn chưa chồng. Bọn tôi hồi ấy nhát gái lắm. Nhát thì không nói chuyện, tán tỉnh được, mà không tán được thì mang tiếng không dân vận được, thế mới khổ chứ lỵ, nên nói may là vì thế.
Và chuyện này lại cũng có ngoại lệ đấy. Không phải anh em Trỗi nào cũng nhát đâu nhé. Ở những lớp học có bạn nữ thì môi trường này giúp mấy anh đực rựa nhà mình mạnh dạn và phóng túng hơn. Ví dụ, sắp đến giờ học môn Hóa, cả lớp ngồi ngay ngắn nhìn lên bảng tuần hoàn Men-đê-lê-ép để chờ thầy. Tới khi thầy vô, sau màn chào hỏi, trực nhật lớp cất bảng tuần hoàn để vào tiết học, không ngờ khi tháo bảng tuần hoàn xuống thì dòng chữ hiện ra, đó là 2 câu:
“ Lớp ta chàng Thắng họ Nê,
Sun fua đã lắm, máu D cũng nhiều”
Bọn học trò nam thì cười lăn, bọn con gái thì mím miệng! Còn thầy thì ngậm ngùi lau vội bảng và nhân vật kia thì đỏ mặt tía tai. Không biết tác giả là ai (nghe nói là Đ.X.H) nhưng chắc bạn cũng học khá môn Hóa (Sun fua hydro mùi gì? Đạp vỡ quả trứng ung ra thì sẽ biết). Vả lại các thầy cô thường dạy học trò là hãy vận dụng kiến thức ta đã học vào thực tế cuộc sống!!
Hồi ấy còn chiến tranh, nên việc ăn uống của bộ đội vẫn kham khổ. Hàng ngày bọn tôi tập quân sự (để chuẩn bị nhập ngũ): Tập lăn, lê, bò, toài đủ thứ, tập hành quân, tập mang vác nặng nên cũng chóng đói lắm. Khẩu phần ăn lúc này cũng chỉ là cơm độn, hạt bo bo; nếu cơm độn mì thì mì được hấp hay luộc thành từng cục, từng cục như bánh bao và cứng hơn nhiều, nhưng cũng không đủ mà ăn. Nhìn thấy trái mít, trái nhãn trên cây của nhà người ta mà ra sức tưởng tượng, mà thèm. Phải chờ cho mít hay nhãn chín đã, chín là mua liền, anh em góp tiền lại mà mua; có khi mua cả cây và để dành ăn dần (để dành trên cây là lý tưởng nhất). Nhãn lồng Hưng Yên các bạn biết rồi đấy, ngon nổi tiếng, mà Hải Dương với Hưng Yên về thổ dưỡng thì xem như nhau, nên nhãn lồng Hải Dương cũng ngon nức nở.
Bọn mình cũng bắt đầu tập tọe hút thuốc lá (chính thức học đòi thì từ trường mới ở Quế Lâm kia; việc mua và hút phải rất kín đáo, chỉ hút ở nhà vệ sinh hay trong .. màn thôi) để cho nó ra người lớn một tý, râu ria cũng bắt đầu lún phún, chỗ này, chỗ kia …
Cũng nhờ điếu thuốc mà chúng tôi và anh chủ nhà càng thân thiết cởi mở. Thi thoảng cũng được vài điếu thuốc thơm (Điện Biên, Thăng Long, Thủ Đô …) tôi không dám hút mà để dành về nhà mời anh. Anh thì thuốc lào là chủ lực nên khi được mời thuốc lá thơm (nói với tụi nó đem từ Hà Nội lên) là anh khoái và vui lắm. Đi đâu thì thôi, chứ về nhà là 2, 3 anh em lại quây quần chuyện nọ xọ chuyện kia, vui đáo để, tình cảm quân dân ngày càng gắn kết.
Biết bộ đội ăn uống, kham khổ, anh mời 2 đứa tôi ăn cơm, bọn tôi nói thật là mới ăn xong. Anh nói: “nhằm nhò gì, 2 chú cứ ăn thêm cơm nhà đi cho nó vui, ở nhà có cá, có tôm tôi đánh bắt được luôn ấy mà, chứ ăn uống như mấy chú thì cực quá, lấy sức đâu mà tập!”. Thú thực là ăn rồi mà bọn tôi còn thấy đói lắm, ăn nữa thì tốt quá, lại có cá, có tôm, toàn những đồ ăn ngon, ai mà chẳng thích nhưng ngại phiền anh chị và cũng khách sáo nữa, bọn tôi từ chối khéo: “Bọn em no lắm rồi, cảm ơn anh chị nhiều”. Anh chị nhường cho 2 đứa chiếc phản giữa nhà. Hai vợ chồng chỉ mới có 1 đứa con nhỏ, nó ngoan ít quấy nên bọn tôi cũng không thấy phiền. Chị thì đan lưới, sửa lưới ở nhà, làm cả đêm hôm. Một, hai giờ sáng, tiếng điếu cày rít lên lanh lảnh, tưởng anh hút thuốc, ai dè hóa ra là chị. Đây có lẽ là lần đầu tiên và duy nhất tôi được chứng kiến một phụ nữ hút thuốc lào. Chị cũng điệu nghệ lắm, từ việc thông điếu, thử điếu, đến việc nhả từng cụm khói trắng phau lên trời. Có lẽ nhờ những điếu thuốc đó mà chị thức được khuya để làm thêm việc nhà, giúp được cho chồng, cho con. Hình ảnh người đàn bà ngồi vá lưới bên ánh đèn dầu hiu hắt với chiếc điếu cày làm bạn giữa đêm khuya khoắt là hình tượng người phụ nữ Việt Nam, hay lam hay làm, chịu thương chịu khó. Mẹ ta, chị ta, em ta cũng có hình bóng ở trong đó.
Một hôm, chúng tôi nói với anh rằng, bọn em sắp lên đường nhận nhiệm vụ mới, 2, 3 hôm nữa thì đi. Chuyện đi, ở của mấy anh bộ đội là thường. Khắp đất nước này, đâu cũng là quê hương mình, người dân ở vùng nào chúng tôi đến cũng là anh, em, cô, bác mình cả, chả thế mà “Xa bầm, con lại có bao nhiêu bầm”.
Ngày mai chúng tôi lên đường. Trưa hôm đó, không khí trong gia đình khang khác, anh chị ít nói hơn. Anh thì cười cười đấy như mọi khi nhưng hơi đượm buồn. Chị thì nựng con: “Mấy chú đi rồi thì chắc cái nhà này buồn lắm, phải không cún con của mẹ” Anh nói với tôi và Chí: “Trưa nay mời 2 chú ăn cơm với gia đình, mà 2 chú phải ăn, nhất quyết thế, chứ không được khách sáo đâu! Anh em mình sắp chia tay nhau rồi”. Không ngờ anh đánh giá cao buổi chia tay này quá. Anh dặn vợ thịt con gà để làm cơm. Vào thời buổi chiến tranh, gạo châu củi quế, việc thịt một con gà không phải là chuyện nhỏ, phải có việc lớn, việc trọng đại trong gia đình thì người ta mới mổ gà. Quả là 2 ông bà coi trọng mấy anh bộ đội này quá, tình nghĩa quá, và họ không tiếc gì với mình. Quả là chúng tôi đã làm tốt câu dân vận: “đi dân nhớ, ở dân thương”. Nếu không nhớ, không thương thì làm sao người ta giết gà đãi mình. Tôi có hỏi Chí: “Mình có làm được gì nhiều cho người ta mà ông bà quí mình thế nhỉ? Hắn nói: “Chắc là anh em mình lăn xả vào chống lụt, cứu đê (đê Phả Lại) như cứu nhà của mình, nên họ phục đấy thôi”. À, có thể thế lắm chứ. Quân hết lòng vì dân thì dân đâu có tiếc điều gì.
Bữa cơm hôm đó thật là ấm áp. Gà tươi, thịt ngon, rượu ngọt. Miếng ngon nhớ lâu, nhưng theo tôi thì chính tấm lòng của chủ nhà, chính cái chất phát mặn mà vùng sông nước của anh chị mới là những đặc sản mà tôi và Chí chắc không bao giờ quên được. Đó là 2 lần được ăn thịt gà đáng nhớ nhất trong đời bộ đội của tôi. Một lần là ăn trộm, một lần là được mời. Chuyện ăn và chuyện mặc bây giờ với mọi người không thành vấn đề lớn nữa. Ăn gì cũng được, miễn là đủ chất, ăn uống khoa học để có sức mà còn làm việc khác. Hãy nói nôm na là: Ăn để mà sống và chú ý đừng để vòng bụng lớn hơn vòng đời thì quả là …bất hạnh.
Tụi nhỏ bằng tuổi chúng mình hồi ấy, bây giờ chúng muốn ăn gì mà chả được, đến nổi nhiều đứa béo phì đến là bệnh hoạn. Đúng là đói quá cũng khổ mà no quá cũng … rất khổ.
Tháng 10 năm 2010, anh em Trỗi ở Nha Trang quyết tâm ra Hà Nội nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập trường. Năm chẵn hay lẻ không quan trọng, hứng chí là đi. Chả may, người tính không bằng trời tính. Anh em xé lẻ ra, người đi sớm, người đi muộn. Riêng tôi mấy chục năm rồi, không gặp lại được anh em bạn bè cùng khóa, nên cũng háo hức lắm. Ra tới nơi thấy không khí hoành tráng quá. Là năm chẵn (45 năm) nên Ban tổ chức làm lớn. Bạn bè cũ gặp lại nhau mừng hơn hớn, “ghét” chúng nó quá.
Dùng “gỗ”, Hải Bằng, Quang Chí hình như trẻ ra, đẹp giai hơn xưa; tụi nó mà nhỡ tán thì các cháu cỡ “hăm” cũng có đứa… “chết” lắm chứ. Ai dám bảo các chú đã U60. Thực ra ở quê thì cũng phải ngồi ở mâm các cụ cơ đấy, nếu có giỗ chạp, cưới xin …
Dũng “cận”, Trịnh Tường vẫn điềm đạm lắm, đúng là những cựu Trung đội trưởng nhà nghề (thiếu Tống Thái Liên và Việt Hùng, 2 bê trưởng hôm đó không có mặt). Đố các bạn nghe thấy Dũng “cận” văng tục, chửi thề bao giờ. Đôn Nguyên, Cường “vui” thì càng lớn trông càng phúc hậu. Bạn Tài Chí, Hải Hồng, Xuân Nam, Tuấn Linh và Linh “khắc đ”, Chí Nhân, Bùi Vinh, Đồng Tiến, Trường Chiến, Thanh Hải … thì vẫn y như xưa (nhận ra ngay), chả già đi chút nào. Hoàng Giang “hắc lào”, Việt Thắng, Mai Tự thì có vẻ mắt như đã mờ. Mai Thành thì ngầu hơn xưa bởi vóc dáng và khuôn mặt. Anh Trần Đào Hà Đông lúc đội mũ kê pi trông như một em thiếu nhi Liên Xô. Thái Chi thì vẫn nhiệt tình và hào hứng như hồi làm báo tường cho lớp ở Y Trung ấy.
Còn mình cũng thay đổi nhiều, làm cho anh em không nhận ra. May có Thanh Kỳ giới thiệu, tụi nó mới té ngửa. Chả thế mà hồi đám ma ông Kháng “ròi” xong, cả bọn kéo về nhà anh của Dũng “vịt bầu” (Vân Đồn – Nha Trang). Ổng thấy mình cứ 1 điều anh, 2 điều anh, làm mấy thằng Tiến “nhái”, Cường “con”, cứ nhắc hoài rằng nó (tôi) cũng cùng lứa với bọn em và “vịt bầu” thôi, anh cứ mày tao với nó chứ có sao đâu?
Hình như gặp nhau chưa đã, trưa ngày hôm sau, khóa 3 lại hẹn gặp nhau ở quán bia Hải Xồm, như lời Thái Chi thì đó là theo yêu cầu của các bạn ở Sài Gòn và của cô em gái Cao Quốc Bảo. Lại gặp nhau, lại vui như pháo nổ, cụng ly, cụng cốc chan chát, bôm bốp, nhưng không có 1, 2, 3 .. dô như trong Nam. Bù lại, hát hò vang lừng, lại cả hét nữa, cũng sắp … vỡ quán.
Quốc Quân thì cứ 1, 2 đòi chụp ảnh chung với Võ Song Yên, theo tư thế bá vai, bá cổ, mà nàng thì không chịu cứ ngúng ngoẩy đẩy hắn ra. Tôi góp ý và trấn an Song Yên: “Em đừng lo, nó chỉ là cái thằng sát gái thôi, em thì nhớn rồi, đâu còn gái nữa mà ngại ngùng, cứ tới đi, có bọn anh làm chứng cho …” Mà nói cho cùng thì tại Song Yên thôi, ai bảo em vẫn duyên dáng, mặn mà, đằm thắm, để cho cái thằng kia nó chịu không nổi!?
Nói thật anh không dám “dây” vào chuyện riêng tư của em, nhưng cẩn thận vẫn hơn, chứ thằng Quân nó nghê lắm. Nhất là những hôm nào … mát giời. Em còn nhớ chuyện con mẹ Đốp chứ? Tuy cơ cấu ở thôn, xã bây giờ có khác, nhưng anh tin nếu có điều kiện là nó (Quân) dám làm ông Lý trưởng lắm lắm …
Tôi không được ngồi lâu, vì còn lên chơi chỗ ông bạn “vàng” Thanh Bình (khóa 4) ở Sơn Tây. Chào anh chị em xong là Thanh Kỳ đưa ra ô tô liền, hướng Sơn Tây trực chỉ.
Vậy muốn biết kết cục cuộc nhậu của anh em khóa 3 ra sao, liệu Quốc Quân có kết ảnh được với Song Yên hay không, mời các bạn xem tiếp hồi sau sẽ rõ.
Vậy có thơ rằng:
Lê Xuân Lý
H S khóa 3
Thứ Bảy, 27 tháng 11, 2010
Cảm xúc khi đọc SRTKL
Tập 1 : Có được cuốn SRTKL tập 1 trên tay sau mấy chục năm không có tin tức gì về các bạn Trỗi, tôi ngấu nghiến đọc như một thằng vớ được ly nước lã sau chặng đường vượt sa mạc khô cằn. Lời văn mộc mạc, những câu chuyện bình thường thời trẻ con gợi nhớ lại cả một đoạn cuộc đời nhiều hơn, nhiều hơn rất nhiều những gì có trong sách mà có những lúc tôi đã tưởng như không còn tồn tại. Vậy mà giờ đây nó được viết thành sách! Dù chỉ là cuốn sách nội bộ cho anh em mình.
Tập 2 : Một cuốn sách hoành tráng, trông như 1 tác phẩm văn học (chỉ trông như thôi). Tôi ôm nó, đọc một lèo thâu đêm suốt sáng, rồi lại nghiền ngẫm thêm 1 ngày nữa. Đóng sách lại, nhìn hình anh Lê Minh Tân ở trang bìa, người tôi nôn nao … Trỗi, lính Trỗi là thế đấy! Tôi vừa được thưởng thức 1 ly bia mát lạnh, ly bia của tình bạn được ấp ủ, lên men trong mấy chục năm cho dù thời gian pha chế không dài (5 năm).
Tập 3 : Nếu 2 tập trước là ly nước lã sau khi vượt sa mạc và ly bia mát lạnh lúc đang khát thì tập này là 1 bữa nhậu đàng hoàng. Bữa nhậu có đầy đủ đồ mồi thịt cá, rau cỏ được chế biến tại nhà hàng, bia ngon đủ loại, lựa chọn thoải mái. Hầu hết bài, ảnh, tin tức trong tập này đều đã được đăng trên các blog bantroi và đã được trao đổi, mổ xẻ kỹ càng trong các lần trà dư tửu hậu mà gần như tuần nào anh em Trỗi cũng gặp nhau. Một bữa nhậu như mọi bữa hàng tuần vẫn nhậu và được bạn nhậu chăm chút, soi mói từng cọng hành, từng mùi vị … cho tới miếng ớt hiểm cũng phải được để nguyên trái chớ không chịu xắc ra! Tôi đã nghiền ngẫm nó tới 2 tuần mà vẫn chưa “thuộc” hết các chi tiết.
Vậy đó, nếu có tập 4 ắt phải là cao lương mỹ vị với rượu xịn tại nhà hàng 5 sao! Mà lúc này thì khó đây. Già hết rồi, người uống nhiều, người nhâm nhi. kẻ ăn thịt, kẻ ăn rau và chắc có đứa chỉ muốn … húp cháo? Nếu tập 4 không phải là 1 tác phẩm văn học thực thụ hấp dẫn thì chắc chẳng ai xem, hay có xem cũng là “để coi nó dở đến cỡ nào?”.
A hà! Bạn Trỗi bây giờ không chỉ cần nhớ lại những kỷ niệm mà cần 1 cuốn sách “để đời” cho con cháu mai sau (để làm gì thì chỉ có chúng nó biết!).
Thứ Sáu, 19 tháng 11, 2010
20/11 - Chúc mừng Các Thầy và Các Bạn làm Thầy
Những hạt phấn trắng
Sáng tác: Nguyễn Duy Trung
Hạt bụi phấn nào đã đong đầy trong khoảnh khắc cuộc đời , khoảnh khắc cuộc đời Thầy dắt con qua.
Hạt bụi phấn nào rơi vào từng bài trong trẻo giọng Thầy , ấm áp lòng Thầy như hạt nắng ban mai.
Những hạt phấn đã rơi hôm qua và hôm nay , có hạt nào rơi từ mái tóc của Thầy.
Những hạt phấn vẽ nên tương lai và yêu thương , ấm tình Thầy thiết tha không bao giờ con quên
Bụi phấn bay,
bụi phấn vẫn bay,
nét chữ Thầy đã thôi tròn đầy theo thời gian , theo thời gian từng lớp trẻ đi qua
Bụi phấn bay,
bụi phấn vẫn bay,
có hạt nào đã rơi đọng lại theo thời gian ,theo thời gian chỉ còn Thầy lặng thầm tô trắng cuộc đời bằng dòng phấn rơi rơi.
Thứ Hai, 15 tháng 11, 2010
Sự sợ hãi và lòng thành thật nguyên thuỷ
Câu trả lời hay nhất
Thứ Sáu, 12 tháng 11, 2010
Thứ Ba, 9 tháng 11, 2010
Lá thư của Vũ-Chí-Dũng để lại giữ rừng
Xuân năm 1984, trong một chuyến khảo sát, đoàn cán bộ Nông trường Giải phóng tỉnh Sông Bé do anh Nhân – nguyên cán bộ Trung đoàn Bình Giã - dẫn đầu, ngược thượng nguồn sông Đồng Nai tới một vùng rừng nguyên sinh, đã bàng hoàng trước một cảnh tượng: Trên 3 chiếc võng dù cùng cột chung đầu vào một thân cây là ba bộ hài cốt. Cạnh mỗi bộ hài cốt là một khẩu AK và đôi dép cao su. Một bức thư gói trong ni lông cột ở đầu võng. Những dòng chữ run rẩy, nguệch ngoạc, nhưng với những ý tứ, câu từ sáng rõ, đã giới thiệu:
“Chúng tôi: 1. Lê Hoàng Vũ, quê Thái Bình; 2. Nguyễn Chí, quê Quảng Ngãi; 3. Trần Viết Dũng, quê thành phố Sài Gòn; chiến sĩ thuộc Tiểu đội 1, Trung đội “Ký Con”, Trung đoàn BG (Bình Giã), Quân giải phóng miền Nam …”.
Hồi đó, sau trận tập kích của Trung đoàn Bình Giã và một số đơn vị khác thuộc BTL Miền, diệt một lực lượng lớn quân Mỹ Ngụy ở Bông Trang – Nhà Đỏ (Thủ Dầu Một), tháng 2/1966, trên đường rút về hậu cứ, một tiểu đội, trong đó có các anh Vũ, Chí, Dũng, được phân công nghi binh đánh lạc hướng địch để trung đoàn trở về an toàn. Một tiểu đội 11 người đã làm tròn nhiệm vụ tạo dấu vết một trung đoàn hành quân. Sau mấy ngày băng rừng, hứng chịu hàng chục phi vụ rải thảm của B52, 8 người đã hy sinh. Vượt qua những ngày đói khát và trên mình đầy thương tích, 3 chiến sĩ còn lại đã tới cánh rừng này. Sức kiệt, máy thông tin hư, các anh chọn khu rừng này làm nơi an nghỉ cuối cùng. 3 chiến sỹ dồn sức còn lại viết về cuộc chiến đấu, sự hy sinh của đồng đội; tình cảm, niềm tin. Lần lượt Vũ, Chí ra đi. Người viết những dòng cuối cùng là Dũng.
“ ... Chúng tôi mong được ghi nhận rằng chúng tôi đã từng sống, chiến đấu và đã chết trong một mùa Xuân giữa đất trời như trăm ngàn cái chết của người Việt Nam chân chính cho Tổ quốc và dân tộc sống còn … Xin cho chúng tôi gởi đến những người đang sống, sống đúng ý nghĩa của nó lời biết ơn sâu sắc vì các bạn đang làm cho cái chết của chúng tôi giữ được đầy đủ ý nghĩa. Các bạn đang lao động quên mình cũng như chúng tôi đã chiến đấu quên mình cho đất nước ta ngày nay tươi đẹp, cho dân ta ngày càng ấm no, hạnh phúc, cho xã hội ta ngày càng dân chủ công bằng”.
“Quyết định rồi chúng tôi tự thấy khoan khoái lạ thường. Sáng suốt hẳn lên …Dừng lại ở đây với một ít sức lực còn lại viết một tường trình cuộc chiến đấu gửi lại cho ai đó tìm được …Mỗi người đứng trước cái chết của mình cố gắng dùng một chút sức còn lại, quả thật rất ít ỏi, để thay nhau chấp bút. Chúng tôi đã chọn cây gỗ tơ còn sống lâu này làm trụ, giúp nhau mắc võng cho từng người, thống nhất nhau tư thế nằm trên võng, sắp xếp vài đồ vật còn lại … Chúng tôi sẽ chết ung dung thư thái như đã từng sống mãnh liệt mà thư thái với công việc chúng tôi đã làm”.
“Nhưng rồi các bạn giục kết thúc lá thư đi thôi. Thời gian không chờ chúng tôi nữa. Chúng tôi đã cảm thấy sắp đến giờ phải từ giã cõi đời này rồi. Trước khi ra đi, thư phải được bảo quản cẩn thận để tránh thời gian mưa nắng phũ phàng. Thư, Thư phải về tới tay những người đang sống”.
“Nếu lá thư này được về với đồng đội chúng tôi trong Trung đoàn BG quân giải phóng miền Nam hay một đơn vị bạn nào đó qua đây, xin chuyển lên giùm cấp trên. Tiểu đội Giải phóng quân chúng tôi trong Trung đội “Ký Con” đã hoàn thành nhiệm vụ. Chúng tôi mong được ghi nhận rằng chúng tôi đã từng sống, chiến đấu và đã chết trong một mùa Xuân giữa đất trời như trăm ngàn cái chết của người Việt Nam chân chính cho Tổ quốc và dân tộc sống còn”.
“Còn như chúng tôi được phát hiện muộn hơn sau 5 năm, 10 năm tự do quý giá, thì xin cho chúng tôi gởi đến những người đang sống, sống đúng ý nghĩa của nó, trong một thời đại vinh quang, lời biết ơn sâu sắc vì các bạn đang làm cho cái chết của chúng tôi giữ được đầy đủ ý nghĩa. Các bạn đang lao động quên mình cũng như chúng tôi đã chiến đấu quên mình cho đất nước ta ngày nay tươi đẹp, cho dân ta ngày càng ấm no, hạnh phúc, cho xã hội ta ngày càng dân chủ công bằng”.
“Hay trong trường hợp đến 50 - 100 năm sau, thư này mới tới những người, có thể gọi là thế hệ mai sau, thì cho phép chúng tôi gửi lời chào xã hội chủ nghĩa, cho phép chúng tôi bày tỏ vui mừng tuyệt diệu vì hạnh phúc và hòa bình đang tràn ngập hành tinh chúng ta mà chúng tôi trở thành những hạt bụi có ích – và hơn thế nữa nếu được, cho chúng tôi gửi lời chào niềm nở nhất đến những con người ở những vì sao xa xôi, những người bạn mới giữa các hành tinh”.
“Mùa Xuân giữa rừng miền Đông Nam Bộ.
Vũ-Chí-Dũng”
Hình: "gặp nhau trên đường ra trận"
Thứ Hai, 25 tháng 10, 2010
Bạn khóa 3 tại Hội trường Hà Nội.
Ngày hội trường là dịp tốt để bạn bè gặp nhau. Hà Nội thủ đô của cà nước tất nhiên là nơi tập trung đông đào nhất các bạn trỗi. Hội trường 16/10 hứa hẹn sẽ thu hút được các bạn và thày cô từ các vùng miến khác nhau. Chỉ riêng trong cái CB con con của nhóm mấy thằng K3 chúng tôi do Bình ngọng làm bí thư cũng đã có hầu hết anh em dự kiến sẽ ra dự hội trường. Mục đích đầu tiên tất nhiên là để gặp lại anh em chiến hữu cùng C ngày ở trường NVT, gặp lại thày cô của mình. Mong muốn là vậy, nhưng nhiều khi, mà nhất là ở tuổi này không phải cứ muốn là được nên có 2 ĐV dù đã quyết tâm, đã mua vé nhưng đến giờ chót phải bỏ cuộc, chỉ còn TLinh, T Công, X Nam và tôi (amk3) tham dự được ngày hội trường ở HN. Nhiều bạn K3 ở Phía Nam cũng không có điều kiện tới được ngày hội trường này nên tôi xin đưa lên đây hình ảnh các bạn K3 tại sự kiện này. Mong muốn của tôi chỉ là để các bạn ở xa có thể thấy lại các bạn của mình. Bản thân tôi cũng không nhớ tên một vài bạn K3 do lâu ngày quá nên cũng không thề chú thích tên từng người. Mời các bạn xem và nếu được, hãy gọi tên bạn mình.
Vì clip làm ở dạng HD, bạn có thể xem toàn màn hình bằng cách nhấn vào ô phóng to màn hình như dưới đây.
Thứ Tư, 20 tháng 10, 2010
Tin buồn
Bà Nguyễn Thị Yến, là mẹ bạn Nguyễn Kim Hậu, B6 K8 C11, sau một thời gian lâm bệnh đã từ trần hồi 4 giờ chiều hôm qua (ngày 19 tháng 10 năm 2010), hưởng thọ 87 tuổi.
Lễ viếng và lễ truy điệu sẽ được cử hành tại nhà tang lễ Bộ Quốc phòng, số 5 Lê Thánh Tông từ 10 giờ đến 12 giờ 30, an táng tại nghĩa trang Tứ Liên, Hà Nội.
K8 sẽ tập trung viếng Bà vào lúc 11 giờ.
Hà Nội trong mắt tôi - Bài 6
Ngày Tết, người ta được hưởng cái thú đi bộ. Thành phố vắng vẻ, tinh tươm, chả pháo nổ hay kẹt xe tắc đường. “Ô sin”, thợ thuyền về quê. Nhà trọ sinh viên vắng tanh. Thế rồi bật ra câu hỏi: “Thật sự thì chen chúc trong Thủ đô mình ngày thường có tới chục triệu người không?”.
Lần đi xe ôm, biết ông lái người Xuân Trường Nam Định tôi nói bừa “Dân Xuân Phú à?”, ai ngờ ông ấy hỏi lại “Anh xóm nào?”. Người xã ông lên đây chạy xe có đến một tiểu đoàn. Gần nhà tôi có chị hàng xôi trông hay hay, hỏi chuyện ra chồng bán nước ghi đề bơm xe đầu phố, con học trường phường, còn cái ông tối tối ép nước mía cách mấy dãy nhà là bố đẻ, đều từ Thái Nguyên xuống. “Em còn bà nội trên ấy. Làng đi vãn, cụ chỉ sợ chết không ai biết, có biết thì đám ma không ai đi”.
Ngoài Chương Dương Hàm Tử có những “xóm” Hưng Yên, “xóm” Thái Bình, ngày gánh mướn đội thuê, quét dọn, rửa bát thuê ngoài phố, đêm về kềnh trong vòng tay người làng, giá hai ba nghìn mỗi đêm ngủ, tất nhiên cả tắm giặt. Đa phần phụ nữ, dai sức không thể tả và rất tiết kiệm, về quê đạp xe từ nửa đêm. Trước họ về cả vụ cấy, nhưng giờ đã “khoán” cả ruộng cho họ hàng, “tập trung vào chuyên môn” trên này. Thiếu họ, những lao động đơn giản, và thiếu đội quân “ô sin”, thành phố hẳn sẽ cuống lên.
Hà Nội, như thế, đã thở cùng một “nhịp” với vùng nông thôn vĩ đại xung quanh mình. Và hẳn là xem xét Hà Nội mà không tính đến những vấn đề của Bắc Bộ (tạm thu hẹp thế thôi), có lẽ giống đặt nồi lên bếp mà chưa biết củi lửa mắm muối đủ chưa. Vậy thì cái nông thôn ấy đang như thế nào, quan hệ với Hà Nội ra sao?
Điều tích cực thì chúng ta đã nói đến nhiều: cung cấp thóc gạo, thực phẩm, đất đai, nhân lực, nguyên vật liệu... Người tài người đẹp từ Quảng Bình Thanh Hoá ra, Lạng Sơn xuống, cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, xó xỉnh chợ búa đâu đâu cũng gặp... Đến đây với khát vọng đổi đời, chả mấy kẻ uể oải, đa phần đều năng nổ, bổ sung phần cần cù mạnh bạo vào cái nhịp yếm thế của người phố. “Hội tụ - Kết tinh - Lan toả”, bổ sung sinh lực, tóm lại là có rất nhiều điều hay để nói về họ. Một nhận xét khác: “mỏ” nhân tài cho Thăng Long xưa nay lớn nhất là Nghệ Tĩnh và xứ Quảng, có lẽ còn mầu mỡ hơn cả Kinh Bắc, Đông, Đoài, bởi người Nghệ người Quảng cạnh tài năng còn là ý chí vô song.
Nhưng lại cũng có cái dở, mà chả hề ít. Sự phát triển làm khoảng cách địa lý giữa thành thị với nông thôn gần lại, nhưng cái hố sâu về mức sống, văn hoá, tập quán... lại toang hoác ra. Những chú phụ nề hơn chục tuổi từ Bắc Giang xuống hay nghêu ngao câu hát về một tình yêu dang dở. Chưa hề thất tình, hẳn thế. Nhưng có lẽ trong vô thức, hàng ngày thấy cả lũ “em Chã” bằng tuổi, chú chả thể bằng lòng về phận mình. Và chú cũng có những ước mơ chứ, có điều chả hướng về ngôi nhà trên đồi có mẹ già cằn cỗi. Nông thôn đang không giữ đợc người. Cái êm ả sau luỹ tre chỉ có nghĩa là ăn đã đủ, mặc không bị rét nữa thôi. Nhưng thế chưa đủ. Đất đai ít, bởi người đẻ mãi ra, trồng cấy sinh lợi ít. Một sào ruộng chịu nhiều khoản: thủy lợi, khuyến nông, phân hoá học, thuốc sâu rầy..., mà trời không thương có khi mất cả. Một “suất đinh” chịu đóng góp các thứ quỹ xóa đói giảm nghèo, tiếp khách, bảo tồn di tích, khuyến học, người cao tuổi, cựu chiến binh, văn nghệ... của xã, thôn, của họ tộc. Thế là phát canh lấy thóc cho bố mẹ ăn, còn mình “ra đi vào chốn đô hội”, chả biết làm nghề gì khác ngoài sức vóc. Cũng không ít đàn bà, với “vốn tự có”. Cái sự ra đi ấy có thể quy cho là bần cùng hóa?
Làng xóm nhiều nơi, vùng xa là chính, đàn ông, thanh niên vãn cả, còn lại là ông già bà lão và những anh dốt nát chả có tài cán gan góc càng không. Nhà văn Dạ Ngân “miêu tả” bằng chữ “trống toang”. Ra đồng tinh đàn bà, tuy đã có đôi ủng cao su buộc cạp lên quá gối lội bùn tiện hơn, nhưng cái việc xấp mặt xuống cấy thì không thể trốn. Tệ hơn là cái nạn cường hào mới. Người giỏi giang ra tỉnh học nghề rồi ở lại, bằng không cứ lao động đơn giản cũng kiếm bằng mấy chân quê. Tết đến, ít hào đem về lại đóng tiền xây nhà thờ họ, mộ tổ, cùng bao thứ quỹ chỉ ở xó xỉnh mới có. Mấy chú đánh giầy bán báo qua bao lần “bắt cóc bỏ đĩa”, nghĩa là những đợt “làm sạch phố phường”, lại nhẩy phắt ra phố. Chúng ưa thích cái “vị” tự do (dù đầy cạm bẫy) hơn tôn ty trong luỹ tre chăng? Và thanh niên ăm ắp khát vọng với tài năng, còn chỗ nào có thể đem lại học vấn, cơ hội đổi đời hơn thành phố? Chả lẽ học xong rồi về quê, nơi lắm khi sự êm đềm lại như một tấm lưới trói chặt cá tính, nghĩ gì nói gì cũng không thể trái lời ông trưởng họ...
Vùng nông thôn gần thì sao? Không thể không nhận thấy là công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã thay đổi nhiều làng quê cũ kỹ. Giao thông phát triển, những khu công nghiệp mọc lên đem lại bộ mặt mới mẻ, hiện đại. Các dự án đem lại công ăn việc làm. Nhiều làng nghề đang suy sụp hồi sinh. Thanh niên rành vi tính, kỹ thuật mới, hay có thể tậu con xe tải chạy pành pành.
Nhưng cạnh phần được đó, lại là bao cái đáng tiếc. Tiếc mà không níu được, có lẽ là những di sản gắn với đời sống nông nghiệp. Nhiều nơi đập cổng làng, xén đất đình cho ô tô đi. Cái hình ảnh một làng quê xấu đi là rõ nhất: đố thấy còn nhà tranh, nhưng “kiến trúc” mới chả có quy hoạch quy chuẩn nào, cứ xây chằn chặn xìn xịt mà cái nọ chửi bố cái kia. Vườn tược cây cối ao chuôm biến mất khiến nước thải chẳng còn chỗ chảy, vừa đem theo cái vẻ êm đềm thanh mát vừa khiến hàng xóm to tiếng.
Dù sao cái phong cảnh “hương đồng gió nội bay đi ít nhiều” đó còn xa xỉ chán, chỉ mấy lão thi sĩ tiếc quắt ruột. Đáng ngại, là hậu quả của việc mất đất canh tác cho các dự án. Vèo cái, qua một đêm, người nông dân gần đô thị có cục tiền cả đời mơ không thấy. Nhưng vẫn là cái anh chỉ biết cấy cầy mà không còn đất, họ đâm thất nghiệp. Tiền dự án đền bù cho sẽ xoay ra làm gì, càng nhiều có khi càng xảy sự, con cái tranh giành, họ tộc đòi góp. Nhà lên được, xe đã mua, có dễ con thành hỏng. Đất đã sụt dưới chân, mà chuyển nghề chạy chợ thì cụt vốn có khi, bởi “quê ta thuần nông, có mả làm thương nghiệp đâu”. Đó là những con tính nát óc bao ông chủ gia đình. Một điều tra của Đại học Kinh tế Quốc dân trên địa bàn Hà Nội vừa cho biết 57% nông dân dùng tiền đền bù đất đai để xây nhà, chỉ có 1% đầu tư cho nghề mới và 3% cho học nghề. Sự thay đổi là cần thiết với đất nước, thủ đô, làng xã, nhưng xa xôi quá, với họ thì lại nhanh và nghiệt ngã khiến trở tay không kịp.
Và ngay ở phạm vi đất nước, cái đất nước xuất khẩu gạo vào loại ác chiến trên thế giới bỗng dưng lại đối mặt với vấn đề an ninh lương thực, thì hẳn là phải có chuyện trong đường hướng phát triển rồi. Giá đắt chừng nào trời nào mà đong!
Dầu sao, cảnh khó của làng quê gần còn là ước mơ của bao xó xỉnh xa xôi. Và lại dầu sao “giầu nhà quê không bằng ngồi lê kẻ chợ”, nên chi “Làng ơi, chào nhé”, nên chi “Cô dì chú bác ở lại, cháu ngược”.
*
Mấy chục vạn, hay mấy triệu người kéo lên Hà Nội, chả biết. Lên theo thời vụ hay thành hẳn “người phố” là mấy phần, chả hay. Chỉ biết cái nội thành cho triệu người là vừa giờ san sát, cựa cái đã chạm nhau. Diện tích mở rộng, đường xá thêm ra, nhà cao tầng rộng lên cho tiết kiệm đất, bao nhiêu cũng không đủ. Thủ đô như cái đầu máy phải gánh phải kéo vùng nông thôn, thở hồng hộc, lem nhem, kém thanh lịch đi. Cũng phải, vì tiền xây cất là còn do thuế từ nông thôn chứ. Và thành phố đâu phải chỉ của người ở đã lâu, ai cấm ai vào được.
Người nông thôn mang vô vàn sức lao động đến, kèm theo cách sống của họ. Tư duy tuỳ tiện, áp dụng lệ làng, xây cất cơi nới, đi đứng hồn nhiên, phạm luật mà không biết. Đa phần lao động đơn giản, họ thành công cụ cho người chủ, có thể bị bóc lột, làm nạn nhân, cũng có khi phá đám lại chút ít. Thành phố cần họ và hiển nhiên, “xếp” họ vào đẳng cấp dươi dưới. Với cái “dươi dưới” ấy, và với tâm lý đi ở tạm “hàng xóm”, liệu họ có yêu quý, lo cho cái cộng đồng chung bằng cho làng nước mình? Từ đấy đến chỗ vứt con chuột ra đường, đái một bãi “mặc bố thằng nào ngửi” rất mỏng.
Nhưng có những con người có chí tiến thủ, học hành đầy đủ, chiếm được những vị trí cao, đủ quyền lực định đoạt việc lớn. Sự tác động của họ vào đời sống đô thị có hay dở của nó, chỉ xin nêu ra ở đây cái phía không tích cực.
Từ nơi khác đến lập nghiệp, cái tâm lý không tự tin và cũng chả tin người rất dễ có. “Cơ chế” cục bộ, co cụm để bảo vệ nhau xuất hiện. Những “tập” người hình thành xung quanh vị “gia trưởng” mới để “chào cờ xã ta”. Người huyện người họ kéo ra, dùng người tài theo kiểu hẹp hòi... ác nghiệt nhất là những ông tiểu nông ấy mà càng quyền cao chức trọng học hàm học vị xum xuê với cả cán bộ đảng viên nữa thì càng “Thôi rồi Hà Nội ơi!”. Nhiều yếu tố khiến cơ cấu dân cư thành phố vỡ một cách “tinh tế”, công tác tổ chức, cán bộ bị ảnh hưởng. Cái tâm lý “chín bỏ làm mười” thâm căn cố đế chiếm dụng, lấn át tư duy duy lý - nhất là trong khoa học, khiến nhiều khảo sát, điều tra, giải quyết vấn đề không được đẩy đến cùng. Và còn những biến thái nhỏ li ti nữa không thể không nghĩ tới. Như là liệu không gắn bó, yêu quý Hà Nội, người ta có chỉ tính tới những giải pháp ngắn hạn, “có tính chất nhiệm kỳ” cho nó? Như là một thành phố không có những dòng họ trí thức lớn như Nguyễn Khoa, Thân Trọng, Hồ Đắc, Hà Thúc ở Huế, hay “Hà Tĩnh họ Phan Nghệ An họ Hồ”, thì liệu có mất mát không? Nói thế thật ra không chính xác lắm, vì Hà Nội chi chít làng xóm, dòng tộc khoa bảng. Nhưng sao đã ngót nghìn năm theo Nho giáo, trí thức đô thị nhiều người huỷ tiết tháo đi, hành xử cứ hay khép lại, không nói ra cái điều họ nghĩ? Có một nỗi ám ảnh thường trực nào chăng?
Thành phố của chúng ta đa sắc thật. Những mảng mầu. Những tập người. Những thời khắc... Hệt như cái kính vạn hoa, chỉ nghiêng đi một tý đã thấy khác.
Trần Chiến