Hẹn gặp nhau ở Đà Nẵng.

KHÓA 3 NGUYỄN VĂN TRỖI
TRÊN TỪNG CÂY SỐ
(Kỳ cuối)



Vào năm học mới, nhà trường thành lập các phân hiệu (tiểu đoàn) quản lý học viên. Đại đội 10 nằm trong đội hình phân hiệu 3. Đại đội gồm hai đại đội 91 và 92 tập hợp lại với bốn trung đội. Trung đội 1, trung đội trưởng Lê Trịnh Tường. Trung đội 2, trung đội trưởng Nguyễn Vũ Định. Trung đội 3, trung đội trưởng Nguyễn Tiến Dũng. Trung đội 4, trung đội trưởng Nguyễn Việt Hùng. Trung đội học yếu của 91 giải thể, chia học viên ra các trung đội, them trung đội 5 từ khóa 4 chuyển lên. Trung đội 5 gồm các bạn đã học rút gọn chương trình suốt cả mấy tháng hè để vào lớp 10 năm học mới cùng toàn khóa. Trung đội 5 do Phan Thanh Bình là trung đội trưởng.
Theo biên chế này, mỗi trung đội là một lớp. Mỗi lớp có một chi đoàn. Mỗi tiểu đội là một phân đoàn thanh niên. Từng tiểu đội lại có các tổ 3 người, tổ tâm giao…luôn gần gũi, giúp đỡ, động viên nhau trong học tập, sinh hoạt.
Ban chỉ huy đại đội là các thầy đã làm nhiệm vụ quản lý học viên khóa 1, 2 rất có kinh nghiệm, nhiệt tình và tận tụy: Đại đội trưởng – thầy Nguyễn Biểu. Chính trị viên – thầy Vũ Văn Điểm.
Người gắn bó với đại đội suốt từ hồi ở Trại Hòe, Trại Cờ - thầy Bạch Quốc Bình – không làm công tác quản lý nhưng vẫn tiếp tục gắn bó với lớp trong trọng trách giáo viên Toán. Giáo viên các bộ môn tiếp tục là các thầy cô, gắn bó nhiều năm với lớp – vừa uyên bác, đức độ vừa rất sư phạm. Dạy Văn – thầy Nguyễn Đỗ, Chi Phan. Dạy Địa – thầy Đinh Khắc Tư. Dạy Sinh vật – thầy Nguyễn Văn Hóa. Dạy Vật lý – thầy Nguyễn Đức Lương, thầy Nguyễn Thân Bổng… Các lớp trước đây đang học Trung văn (trung đội 1, trung đội 2) nay cũng chuyển qua học Nga văn với giáo viên mới – cô Thái Hồng Hảo.
Cơ sở vật chất của trường sang cơ sở mới ở Phong Khẩu như thư viện, phòng thí nghiệm, phòng học chuyên dung… đã được triển khai hỗ trợ tốt cho công tác giảng dạy và học tập.
Đại đội vẫn tiếp tục được “tăng viện”. Học viên mới, lứa “út” có Thanh Hà (nữ) Chí Đỉnh (nam)… Các bạn nhanh chóng bắt kịp nề nếp sinh hoạt và học tập chung.
Bước vào đầu năm, là đợt huấn luyện quân sự; ném lựu đạn, xạ kích, điều lệnh đội ngũ, báo động, hành quân. Giờ học đầu tiên ở tất cả các lớp được tiến hành rất trang trọng: lớp trưởng báo cáo quân số, có anh hung liệt sĩ Nguyễn Văn Trội dự học… với bài giảng về hành động anh hùng của anh “Mạnh hơn sung gươm và án tử hình” (Thơ Giang Nam)
Lại có những va chạm giữa “bồ tây”, “bồ ta”. Tại các trung đội, các chi đoàn đều tổ chức hội thảo: tình bạn là trọng nhưng việc học tập đã vào năm cuối, trồng cây đã tới ngày ăn quả… không nên để mất tập trung, ảnh hưởng kết quả thi tốt nghiệp. Các chi đoàn phân công các đôi bạn, tổ ba người gần gũi, quản lý, giúp đỡ nhau, tránh va chạm. Đại đội cũng tổ chức các hoạt động tập thể, thu hút đông đảo người tham gia: hội thao quân sự, cắm trại dã ngoại… Tháng 10, học viên của đại đội còn tham gia gặt lúa giúp dân. Đi gặt – đối với học viên của đại dội không còn xa lạ gì. Chỉ lạ là lúa rất xấu nhưng cán bộ địa phương vẫn giới thiệu “được mùa chưa từng có”.
Thời kỳ này, Cách mạng văn hóa của Trung Quốc bước vào giai đoạn xung đột căng thẳng. Các phe phái giải quyết mâu thuẫn với nhau cả bằng tiểu liên và đại bác. Có lần, đạn pháo rơi sát tường nhà trường. Việc bảo đảm của địa phương cho nhà trường bị bê trễ, gián đoạn. Đã có hiện tượng mất điện, mất nước. Đích thân hiệu trưởng nhà trường phải vào nhà dân, tìm nguồn cung cấp lương thực dự trữ.
Tết Mậu Thân 1968 – Tết thứ 2 trên đất Trung Quốc. Nhà Trường tổ chức Tết cho cán bộ, nhân viên, học viên rất chu đáo. Đêm 30, các trung đội đều họp mặt đón giao thừa, có hoa đào, hoa mai, có bánh kẹo, văn nghệ, hái hoa dân chủ, đón nghe lời chúc Tết của Bác Hồ
Tết này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng trận tin vui khắp nước nhà
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên toàn thắng ắt về ta
Ngày mùng 1, cả đại đội ủa ra dưới loa truyền thanh nghe tin đại sứ Mỹ ở Sài Gòn bị ta tấn công, Quân giải phóng làm chủ các biệt khu đô thành, nhân dân nổi dậy diệt ác, phá kìm. Tổng tấn công và nổi dậy trên toàn miền Nam. Nhiều bạn hò reo, “Giải phóng rồi, thống nhất rồi…” Ai cũng thấy phấn chấn, rạo rực trong lòng.
Không khí Tổng tấn công tràn vào các lớp học – thi đua học tập tốt, rèn luyện tốt, sẵn sàng lên đường giải phóng miền Nam. Bảng thi đua dựng ngay trong sân, thông báo kết quả thi đua trong từng tuần, từng tháng. Những cá nhân, tập thể có thành tích tốt trong rèn luyện, học tập được đại đội chụp ảnh, biểu dương treo trong hội trường, sau đó gửi về gia đình. Thật sôi nổi, cuốn hút.
Vào giai đoạn ôn thi. Cán sự các bộ môn ở các lớp phát huy vai trò: hướng dẫn anh em làm đề cương, hệ thống hóa kiến thức. Các buổi tự tu trở thành buổi giải đáp ôn tập, có sự có mặt của giáo viên, khêu gợi cách suy nghĩ, bao quát kiến thức. Các phòng học được phép sang đèn quá giờ quy định. Khi khóa 4 đã lên đường về nước, đại đội tiến hành “dãn dân”: Cứ một trung đội ở một tầng nhà (3 phòng) tiện cho việc thức khuya, dậy sớm. Nhiều tổ, đôi bạn tranh thủ truy trao, giảng lại những bài chưa hiểu, chưa rõ.
Kỳ thi tốt nghiệp, năm học 1967 – 1968, được nhà trường tổ chức chu đáo. Học viên tham gia thi 4 môn Văn, Toán, Lý, Hóa tại 4 phòng thi. Kỳ thi được sự động viên cả vật chất và tinh thần của toàn trường.
Thi xong, đại đội bước vào huấn luyện quân sự: báo động chuyển trạng thái, hành quân mang nặng. Một lần, hành quân leo núi buổi tối, cả đoàn quân với ba lô tư trang đi hì hụi vượt dốc thì phát hiện có mấy thanh niên Trung Quốc đi ngang qua… Thời buổi xung đột Cách mạng văn hóa không biết những thanh niên này thuộc phe phái nào? Đại đội phát lệnh: dừng tại chỗ, bắt nhịp…hát: “Giải phóng miền Nam chúng ta cùng quyết tiến bước. Diệt lũ Đế quốc, phá tan bè lũ bán nước…”Tiếng hát hào hùng vang lên khắp đồi núi giữa đêm khuya, vừa hừng hực khí thế vừa để báo hiệu – chúng tôi là Việt Nam. Việt Nam đây…
Nhận được kết quả thi tốt nghiệp, đại đội cũng nhận được lệnh: chuẩn bị về nước. Các công tác bàn giao, thanh toán cơ sở vật chất, chuẩn bị quân tư trang được tiến hành khẩn trương. Đại đội cũng hoàn thành việc bắc đường ống dẫn nước dự trữ từ trên núi về trường đề phòng khi bị cắt điện, nước.
Ngày 1 – 7, ngày kỉ niệm thành lập Đảng cộng sản Trung Quốc, đại đội vinh dự được tham gia tiếp khách cùng hiệu trường Bùi Khắc Quỳnh. Khách là thầy Linh Hán Dân, hiệu trường trường trung học số 1 Quế Lâm. Khách hội đàm với hiệu trưởng, đi thăm cơ ngơi của nhà trường và gặp gỡ học viên đại đội 10. Trước hàng quân, hiệu trưởng Bùi Khắc Quỳnh tự hào giới thiệu: “Đây là khóa 3, mẻ thép thứ 3 của nhà trường chúng tôi.”
Qua mỗi năm học, phiên hiệu của đại đội “lớn lên” cùng sự trưởng thành của tập thể lớp: đại đội 7, đại đội 8, đại đội 9, đại đội 10. Được nhà trường xác nhận và công nhận “khóa 3, mẻ thép thứ 3,  “thép đã tôi thế đấy” của nhà trường”, đối với toàn khóa, thật sự là niềm vinh dự, tự hào.
Hai ngày sau, toàn khóa lên đường. Chia tay mái trường văn hóa quân đội bao năm gắn bó, nhiều bạn không cầm được nước mắt…
Một tháng sau, ngày 1 – 8, tại trường quân chính quân khu Tả Ngạn, toàn khóa làm lễ nhập ngũ, chính thức trở thành Bộ đội cụ Hồ, quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam.

* * * * *
Các đồng đội thân mến…Đã đến “cây số” cuối cùng của “Khóa 3 Nguyễn Văn Trỗi trên từng cây số”. Được Trần Đào Hà Đông gọi là “chính sử”, Hồ Bắc rất sung sướng nhưng cũng thật sự ngại: nhiều chi tiết, nhiều hoạt động, nhiều niềm vui và nỗi buồn của tập thể khóa, qua từng ấy năm mà giờ…ghi lại sơ sài quá. Mong các anh tài khóa 3, những người “yêu lâu nhớ dai” bổ sung, kể thêm để nhớ thêm những ngày thương mến ấy.



Trần Hồ Bắc