Thứ Bảy, 9 tháng 10, 2010

Ca khúc về Hà Nội






Nhớ tuổi thơ Hà Nội – Đức Chính

Nhớ vô cùng ngày tôi xa Hà Nội 
Những phố phường tuổi thơ tôi bồi hồi 
Phố Hàng Lược chợ hoa, phố Hàng Đào lụa tơ 
Đất Thăng Long người ơi 
Mái nhà nào chờ tôi 
Bài hát của tôi, làn gió của tôi 

Những tháng ngày tuổi thơ tôi - Hà Nội 
Những chiều chiều đội mưa 
Lũ bạn bè ngày xưa 
Trốn học đi tìm thơ 
Trái tim tôi mộng mơ. 
Bài hát mùa đông, làn gió mùa đông 

Phía sông Hồng 
Những cánh buồm, những cánh buồm nâu 
Những con thuyền dắt nhau về đâu 
Bãi dâu chiều khuất xa. 

Mãi vẫn là tuổi thơ tôi - Hà Nội 
Dáng hiền từ, Bà tôi, dắt tôi trong chiều nghiêng 
Mãi mãi truyện thần tiên 
Đất Thăng Long hùng thiêng 
Còn đó tuổi thơ, còn mãi ngày xưa 

Sóng Tây Hồ 
Tiếng chuông chùa khuất xa thật xa 
Những mái nhà ngói xô bài ca 
Những gì đã qua lại bao la vọng về 
Những gì đã qua lại bao la một chiều 

Mãi vẫn là tuổi thơ tôi - Hà Nội..

Hồ Tây


"Gia đình tôi đón nhận SRTKL tập 3"

Chị Cao Thị Minh là em gái LS Cao Quốc Bảo đã viết như thế tại Blog BẠN TRỖI K5, mời các bạn K3 vào xem.

Thứ Năm, 7 tháng 10, 2010

Hình ảnh ngày Hội trường nhân dịp 45 năm tại Tp. HCM

Mời các bạn xem lại một số hình ảnh về buổi gặp mặt các bạn Trỗi nhân dịp kỷ niệm 45 năm thành lập Trường.
Là một học sinh cũ của trường, tôi cũng rất tự hào về điều này và muốn góp một phần cho ngày hội này theo khả năng của mình. Tôi đã chuyển clip này lên đĩa DVD (HD) để có thể coi được trên đầu máy.




Thứ Tư, 6 tháng 10, 2010

Hà Nội trong mắt ai - Trần Văn Thuỷ

  Đây là một bộ phim tư liệu rất quý giá của đạo diễn Trần Văn Thủy (Tác phẩm được sản xuất năm 1982 nhưng bị cấm cho tới năm 1987 mới được công chiếu rộng rãi). Phim đưa người xem tham quan gần như tất cả những danh thắng, di tích lịch sử nổi tiếng của Hà Nội: Từ hồ Hoàn Kiếm với những con phố cổ chưa bị hàng hóa che lấp,  đến Hồ Tây mờ sương. Một Hà Nội trinh nguyên đầu những năm 80 với tất cả vẻ đẹp mà ngày nay người ta đang tiếc nuối. 
  Cũng với ý đồ mô tả về Hà nội ,sau trần Xuân Thuỷ  hai chục năm ,TC của chúng ta  có loạt bài viết  qúi giá không kém,đặt  Hà nội dưới góc nhìn của khảo cứu lịch sủ phát triển thị tứ  và  phát triển văn hoá đô thị.
  Dù cho hai tác giả sử dụng hai loại hình thể hiện khác hẳn nhau : một bên là để 'nghe-nhìn' bên kia là để 'đọc' ,song xem phim của Trần Văn Thuỷ lại làm cảm nhận thấm thía hơn những gì TC viết và cũng có hiệu ứng ngược lại. 

  Và ...Giờ thì bố bảo cũng chịu : không xác định được ai bổ sung cho ai nhiều hơn?




Thứ Hai, 4 tháng 10, 2010

Hà Nội trong mắt tôi - Bài 4


Tiếng ta “trôi”

Khoảng năm 1915 – 1917, những hoạt động khoa cử theo Nho giáo cuối cùng diễn ra. Giai đoạn phổ biến tiếng Pháp cho tầng lớp trên, sau đó là Quốc ngữ cho đại chúng bắt đầu. Quốc ngữ, trên một chừng mực, mang theo tinh thần dân tộc, được cách mạng tận dụng triệt để trong công cuộc chống ngoại xâm, đã có sức sống mạnh mẽ. Vả chăng nó có những lợi thế rõ ràng để phổ cập: đánh vần được, âm thanh thì vẫn ta mà con chữ lại “gần gần” của người Tây phương. Tức là học nó rất dễ, nâng cao dân trí, tuyên truyền cách mạng nhanh chóng. Trong thôn hương, bên cạnh những ông đồ lại có trí thức bình dân, trình độ cao hơn cộng đồng nhưng “ăn nói dễ hiểu”. Giáo sư Đặng Văn Ngữ kể chuyện khi trở về nước, thấy dân làng nọ phải đánh vần “a bờ cờ” được mới có thể đi qua trạm kiểm soát, ông đã run lên vì cảm động.
Tuy chả phải độc tôn, chủ yếu ở tầng lớp trên, tiếng Pháp vẫn là tấm “thông hành” để trở thành trí thức thượng lưu hay chiếm vị trí quyền lực thực sự trong bộ máy cai trị (chỉ chữ Nho không thì nhiều khi chỉ có hư quyền). Chả thế mà có một tầng lớp làu thông cả Nho lẫn Pháp, như “Tứ hổ Tràng An” Quỳnh - Vĩnh - Tố – Tốn, không chỉ có thể phiên dịch mà còn tư duy được bằng hai ngữ ấy. Nhưng chữ Nho “đứt” dần. Văn hoá Pháp, lợi quyền làm quan quyến rũ lớp người trẻ. Người Việt, hình như không có âm “pờ”, bắt đầu làm quen với “pin”, “pích”, “poóc – ba – ga”, “ping – pông”, “pê – nan – ty”...
Giống như mọi xứ, sự tiếp biến ngôn ngữ ở ta cũng có sắc thái hài hước, tức là pha trộn theo nguyên tắc phải gây cười. Các cụ Nho – Tây làm thơ tứ tuyệt bằng âm “tây” rất đúng niêm luật:
Đờ puy cờ giơ tơ cổn nét
Giuýt ki xì xít xết an nê
ẳng tăng đồng xíp lê xà lúp
Tú xơ là xà cúp mông cơ
(Từ khi em biết anh đến nay đã sáu bẩy năm rồi, (giờ) nghe tiếng còi tầu thuỷ thét vang như xé tim em)
Đây chắc là “cõi lòng” của một “me” khi gã “quỷ hồng mao” “ngược” về trời tây. Có những câu khác, mang sắc thái chế giễu nhiều hơn, nhắc lời bồi ta tả con cua cho chủ tây: “Luý to cẩm manh, luý a uýt cẳng đơ càng, luý cắp đau chết cha, rô ti luý thơm cẩm nước hoa, măng giê luý bố cu bồng quên chết”, tức là “nó to bằng bàn tay, tám cẳng hai càng cắp đau chết cha, rán lên thơm như nước hoa, ăn ngon quên chết”. Lại có những “từ” được phiên sang âm Hán, chả biết nghiêm túc đến đâu, như gọi máy chữ là “cơ khí tự”, đánh máy chữ là “đả cơ khí tự”, người đánh máy là “đả cơ khí tự viên”.
Rồi đánh Pháp, tinh thần dân tộc, tinh thần giai cấp trên hết, tiếng Tây lắm lúc như hủi. Những ông đốc tờ thầy cãi theo kháng chiến gặp nhau trong kháng chiến chỉ sợ bị đánh giá, nói tiếng Tây như ăn cắp. Chiến dịch Biên giới nổ ra, cùng với những ảnh hưởng của Trung Quốc, âm Hán (bạch thoại?) hoặc trở lại hoặc tràn vào, như “phương vị” của pháo binh, “thổ cải” thời cải cách ruộng đất. Những “hoả xa”, “lý trình” của ngành giao thông còn mãi đến ngày nay.
Tiếng Nga có vị thế từ những năm sáu mươi, lưu học sinh mang về, nhà trường cũng dậy. Văn hoá Nga làm thổn thức bao thế hệ, lính đánh Mỹ ra trận nhiều người trong ba lô có thơ tình Ôn – ga Béc – gôn. Nhưng quá khó, và việc dậy dỗ cũng tam khoanh tứ đốm, nó chưa kịp mọc rễ đã bị tranh chỗ khi thời thế thay đổi. Phải nói là trong khoảng ba chục năm, từ ’60 đến ’90, việc dậy ngoại ngữ trong trường phổ thông, đại học ở Hà Nội tạo ra một lớp trí thức “kinh qua” cả Trung Nga Anh Pháp văn nhưng chả ngữ nào ra hồn. Chữ Hán thì hoàn toàn mù tịt rồi, thành thử vươn ra thế giới hiện đại thì khó, mà quay về với quá khứ lại tắc tị. Nghĩa là nẻo vào các nền tri thức khác bít kín.
Tiếng Nga nay còn lại trong người vui tính, có lẽ là những “Tình hình xây chác (bây giờ) có gì nố vưi (mới)?”, hay “I a tôi cũng tố gie”.
Vụt cái đã sang thời của tiếng Anh. Nói thế vì bao người “sôi Nga nấu Pháp”, thoắt cái thấy mình lạc hậu. Tài liệu, thông tin, môi trường làm ăn, giao tiếp..., đâu đâu cũng là “thằng” Ăng lê. Thế kỉ XXI sập đến với những “com piu tơ”, “lép tóp”, mạng “gút gồ”, chả biết tiếng Anh thì “thôi rồi nghỉ cho khoẻ”. Những chuyên gia lành nghề phải nhả suất du học cho đứa trẻ ranh. Những bộ trưởng về hưu cố một học bổng Anh quốc. Những giáo viên tiếng Nga đang nuôi con nhỏ giằn lòng chuyển sang tiếng Anh. Không chỉ là chìa khoá mở vào tri thức, văn hoá, nó còn là phương tiện sinh nhai hay tiến thủ đến quyền lực.
Lại giống cách nay dăm bẩy chục năm, con đường phổ biến tiếng Anh cũng có sắc thái hài hước. Học sinh, thanh niên, do nhu cầu học mà chơi, chơi mà học, “sáng tạo” ra những “giải pháp thông dịch” đánh đố nhau. Sugar you you go, sugar me me go tức là “đường anh anh đi, đường tôi tôi đi”. “Rùng rợn” hơn, I love toilet you go go là “tôi yêu cầu anh đi đi”. Nhả nhớt, nghịch ngợm, dường như là một phẩm chất không thể thiếu của sự tiếp biến văn hoá nghiêm túc.

*
Trôi giữa các dòng chẩy không thể nói là hiền hoà, tiếng Việt ta đã tiếp nhận, biến đổi thật nhanh. Sinh ngữ như một cơ thể hồn nhiên, chịu ảnh hưởng của thời thế - cái liên tục thay đổi. Và càng là đô thị thì thay đổi càng chóng mặt. Có cái cảm giác người Việt tiếp nhận những ảnh hưởng ngôn ngữ rất hồn nhiên, và bộc lộ luôn sự tự ty về văn hoá. Thứ tiếng cổ, thuần khiết chỉ còn nơi những bà còng tỉ mẩn gà qué ở quê, cụ mà lên tỉnh khéo lắm khi thành ra đi nước ngoài. Lắm nhà văn, lắm ông nghiên cứu ngôn ngữ thích đôi hồi với các cụ là vì sợ tuột mất những nôm na, phương ngữ...
“Trôi” về đâu, như thế nào, thì rất bộn bề, và nó dành cho nhà nghiên cứu. Trên phương diện chủ quan, người viết cứ “dựng” tạm lên mấy xu hướng sau:
- Bình dân hoá. Cách nói, viết không cần chuẩn, cốt hiểu được. Từ mới phát sinh theo những “quy luật” thật vui: “vấn nạn”, “cảnh báo”, “hơi bị hay”... Do tiếng Việt dậy trong trường phổ thông, thậm chí trường báo chí khá nham nhở, nhiều tờ báo dùng bài sử dụng từ sai, câu không đủ thành phần. Quy tắc viết hoa, phiên âm dường như không có. Nhiều hàng ăn, có lẽ nghĩ đến câu “ăn cơm Tàu”, dựng biển có chữ “quán” sau cùng, thậm chí cả “Dân tộc quán” dù cách ghép từ này chả hề dân tộc. Văn viết là vậy, văn nói – chủ yếu trên truyền hình – lại càng lơ lớ. Lơ lớ nhưng lại là thời thượng.
- Quốc tế hoá. Thời tiếng Tây, người đô thị học nói “phi dê”, “gác đờ bu”, “sếp”. Sang thời nay, câu bị động sử dùng nhiều: “Nàng bị quấy rối tình dục bởi giám đốc”, “hội ăn thịt chó dẫn đầu bởi kẻ vừa trúng mánh”, “B. xếp sau A. với 3 điểm ít hơn”... Chả biết đến một lúc người ta có nói “mắm tôm dậy mùi bởi chanh” không? “Đến từ” là một cách nói sành điệu thì vừa rối rắm lại rất đáng ngờ về sự chính xác. Sắc thái, tiếng vang trong âm nước ngoài thấy rõ trong những “xâu (show) diễn”, “đi toa lét”, “nâu (no) vấn đề”... Lối thoại cộc, ít từ phái sinh kiểu “à  nhỉ nhé”, có lẽ ảnh hưởng từ văn hoá bình dân Mỹ được dùng nhiều. Và một điều không thể không lan đến tiếng ta là cách xưng hô dân chủ, ít tôn ty, chỉ dùng có vài đại từ nhân xưng của ng
ười Âu Mỹ. Có thể vì điều này mà những người của công chúng, khi xuất hiện trước đám đông thường xưng tên, vừa giản tiện vừa không mất khiêm nhường. Cái cách xưng tên này cũng được đã vài lão sáu mươi sử dụng, đã sinh ra hiệu quả rất hài hước.
- Cá thể hoá. Những tập người khác nhau về tuổi tác, văn hoá, tầm mức kinh tế... có cách “lập ngôn” khác nhau rõ ràng. Rõ nhất là trong câu thoại, diễn ra trong cộng đồng của họ. Văng tục đa phần bị cho là thiếu văn hoá, nhưng nhiều người bảo không thể trộn nó với cách nói tục; “nói” khác với “văng”, có chọn lựa, để thể hiện một nội dung không có cách thể hiện khác. Báo “Người cao tuổi” không “híc híc” như “Hoa học trò”, báo Đảng giọng nghiêm trang, giầu chính luận hơn báo đoàn thể. Cùng một báo, chuyên mục này luôn phải giữ tính định hướng, giáo huấn, trong khi chuyên mục khác cứ phải bông phèng mới xong. Lứa 8X nói khác lứa 9X. Lại có loại “văn” chít chát, nhắn tin, tất nhiên lấy ngắn gọn làm đầu, tỉ nh “j” là “gì”, “ko” là “không”. Có người đặt vấn đề “văn mạng”, nhưng cho đến lúc này, những “tác phẩm” đưa lên mạng mà đứng lại được đều phải chỉn chu cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Còn đâu, do chả ai biên tập, chả phải chịu trách nhiệm nhiều lắm, đa phần mỏng manh trước thử thách trường tồn; nghĩa là giá trị chính của mạng vẫn là ở chỗ “ai đến ai đi cũng được”, nghĩa là còn lâu nó mới trèo được đến vị trí của “văn học giấy”.
*
Tiếng Việt dễ tiếp nhận các ảnh hưởng, và người Việt cũng hồn nhiên giữa các tiếp biến. Vì thế, rất khó đoán các xu hướng trên phát triển đến đâu. Nhưng chúng ở ngoài ta, ghét hay thích chúng cứ độc lập vận động. Sinh ngữ là vậy, luôn luôn mở, luôn luôn ngọ nguậy đón chào, cái vừa là mới đã có thể thay bằng cái khác. Có lẽ vì thế mà sách, tạp chí, nhất là báo (báo mạng thì “thôi rồi”) không ai có thể chuẩn hoá được việc viết hoa, để nguyên hay phiên âm tiếng nước ngoài...