Thứ Bảy, 28 tháng 7, 2012

Thái Chi gửi tặng bạn bè K3



            Hà nội 5 tháng 8 năm 2012


 Một bức ảnh của Trỗi K3 được quyền công bố.

                                                                                                                          Nguyễn Thái Chi - K3


     Có thể Đồng đội Trỗi không tin khi tôi đang sở hưu một bức ảnh chụp toàn cảnh ngay tại khu rừng núi năm xưa – Huyện Đại Từ. Con suối đã chứng kiến nhiều vô kể những kỷ niệm “Một thời tuổi thơ Thiếu sinh quân”. Bức ảnh đẹp lắm với cảnh thiên nhiên núi rừng không bao giờ quên dù đã 47 năm, đẹp hơn cả là cảnh Nuy “ Trần Truồng “của những Thiếu sinh Quân năm xưa khi đó chỉ 10, hay11 hoặc 13,14 tuổi, nay đã là các Thiếu sinh U60, la hét , cười nói bơi lội, lặn ngụp, kệ cho dòng nước trôi chảy, thác đổ ào ào , họ sướng , và núi rừng cũng sung sướng cùng - TSQ ngày 15 tháng 10 năm 1965, nơi sinh là bên con suối này, Trường Nguyễn Văn Trỗi là cha, là mẹ…

     Tuổi U 60 mới cảm nhận từng hình ảnh năm xưa hiện lên- tôi là đứa con Trai, là cháu Đích tôn mới 14 tuổi lên đường “Nhập Ngũ”. vào học Trường TSQ Nguyễn văn Trỗi, đóng quân tại rừng núi bên con suối này mà chúng tôi gọi nó là Bom Bo....Chúng tôi Tự hào đã trở thành “Trai nam nhi_Rất nhí “ nhỏ con được mang trên người bộ Quân phục..

     Những thế hệ đi trước trong gia dinh tôi như Ông Nội, các Cô Chú rồi Bố tôi đều là Bộ đội Cụ Hồ…Ba thế hệ Bộ dội, và tiếc là khi có con lại là gái không nối tiếp được…Khi đó không ai xa lạ_ Các Bác các Cô Chú thậm chí cả Người quen với gia đình đều nói Nó lên đó làm sao chịu nổi, chứ chưa nói học tập và rèn luyện, có theo được không? Từng đợt, từng tốp lẻ, rồi hàng chục rồi hàng trăm cứ thế lên Trường….. Các Anh Chị K1,2 Chúng Tôi K3 và các Em k4,5…7, 8 hầu như ở các tỉnh, đông nhất là Hà nội , mặt búng ra sữa, toàn thư sinh công tử bột, lần lượt về đây với con suối này. Tất cả dược mang bộ quân phục mang cái mác Học Viên và cứ thế sống học tập rèn luyện lao động theo chế độ, kỷ luật của một Quân Nhân, lập tổ Tam tam, 3 người sau mỗi ngày học tập lao động là dốc bầu tâm sự, góp ý cho nhau phấn đấu học giỏi, phấn đấu vào Đòan, thậm chí tâm sự riêng với Súng, là vô tri vô giác nếu súng đối với binh sỹ được ví như Vợ, còn với chúng tôi TSQ, ví như người Tinh , người yêu và khi không biết giãi bày với ai, khi phải dấu kín một bí mât riêng chỉ có súng bên người, và chỉ có con suối này, và rừng núi này, ghi lại những ước mong mau tốt nghiệp để đi chiến đấu , mau được sống chung trong không khí cả nước đang chống Mỹ cứu nước.

     Như kẻ trưởng thành và bây giờ tại con suối này chúng tôi- đồng đội khóa 3, số Đại tá hay cán bộ cao cấp, chiếm phần đông và dần dần về hưu đang vô tư, lặn ngụp bơi lội. Hình ảnh đó, có Tôi và có Đồng đội , sao Tôi lại không biết ơn và sao có thể không ghi nhớ. “Bởi cái gốc của vấn đề”, một khi kết qủa với đa số thật trọn vẹn,và với ai đó còn dở dang, bề bộn, luôn vô tư vượt qua. 


     Nhớ những ngày đầu, chúng tôi cùng nhau vào rừng chặt tre, tìm nứa, vác củi về để dựng lán trại, thật khẩn trương để kịp ngày khai Trường, không thể tưởng tưởng nổi vì có đứa nào phải làm những việc như thế. Rồi 15 tháng10 năm 1965 . Từ khóa 1 đến 5 ( lớp 6 đến lớp 10) trên dưới nghìn học viên TSQ, với bộ quân phục, mũ gắn Quân hiệu Quân đội Nhân Dân VN trên cổ áo không có ve đỏ, không có sao … Chúng tôi chỉnh tề dứng thành đội ngũ, tự hào đón buổi lễ khai Trường…Có nghĩa từ ngày hôm nay được gia đình xã hội công nhận là Bộ đội Cụ Hồ, đây sẽ là thế hệ nối tiếp Chống Mỹ cứu nước. Trên lễ đài-khai trương, toàn thể Thầy Cô giáo, các đại diện trong ngoài Quân đội trang nghiêm chào cờ, tuyên bố Lễ khai giảng, không ồn ào không phô trương, rất bí mật. Trang nghiêm nghe các phát biểu. Với ai lúc này tôi không rõ nhưng tôi rất xúc động nhớ mãi .

     Chưa qua một hai giờ đã có không ít các TSQ lần lượt thụp xuống, bị say nắng, chưa quen …Riêng K3 chỉ vài Bạn còn các lớp nhỏ hơn nhiều hơn đang được các Thấy cô giáo và y bác sỹ nhanh chóng đưa ra ngoài, sơ cứu ,cho nghỉ ngơi…Đa số vẫn đứng nghiêm dồn đội hình vào thế chỗ tới phút cuối. Như vậy đó mỗi khi gặp lại nhau luôn kể lại và nhớ về khu đất bằng phẳng được tạm phát quang dùng cho buổi lễ, Tôi nhớ như in xung quanh rậm rịt cây cối …Buổi lễ được ghi hình bởi các Bác làm Điện ảnh QĐ… Ngày hôm đó : an toàn tuyệt đối, tránh được con mắt điện tử của máy bay Mỹ…Chỉ Chúng tôi biết. Rồi và rồi…


       

     Đã có nhiều Bạn đồng lứa không phải là TSQ “ thực sự muốn” được như chúng tôi .Chúng tôi dưới cái nhìn thời chiến bị xem là né tránh tìm đường thuận lợi trong khi mọi thanh niên trên toàn quốc đang hừng hực xung phong đi cứu nước. Có biết bao gian khổ thời chúng tôi phấn đấu để vượt qua không ai nghĩ tới. Chúng tôi không chạnh lòng bởi có niềm tin. Có thể vài người không thấy hết giá trị mà Trường TSQ Nguyễn Văn Trỗi đã mang lại. Chúng tôi biết chỉ có công ơn các Thầy cô giáo người được chọn lưạ , là người xuất sắc nhất dạy giỗ chúng tôi, mới được như hôm nay, đặc biệt tạo ra giá trị đó. Sau 45 năm Bản thân tôi và nhiều Học viên đã thấu hiểu về truyền thống Trường tạo bản lĩnh, phát triển và trưởng thành dù trong hoàn cảnh nào…Có hơn ba chục dồng đội đã hy sinh không ít được công nhận là Anh hùng, liệt sỹ, thương bệnh binh và lúc naỳ các Bạn là TSQ giữ chức vụ Thứ bộ trưởng, phó Thủ tường , mang hàm Tướng, và những sỹ quan cao cấp Thượng, Đaị tá… 

TSQ VN chúc thọ Đại tướng

     Nhân kỷ niệm 60 năm ngày Đại tướng Võ Nguyên Giáp kí lệnh thống nhất các trường TSQ trong phạm vi cả nước (10/11/1948) .

   
     
       Buổi gặp mặt các thế hệ TSQ VN Văn phòng Đại tướng xếp lịch tiếp vào chiều 17/9./2008



        ( Thái Chi thứ 2 sau Phu nhân Đại Tướng )

     Sau phần đại diện TSQ chúc sức khỏe Đại tướng thì đến phần tặng quà. Đại tá Thái Chi lên tặng hoa Đaị tướng .




    
      Một tấm ảnh, một con suối, môt địa danh núi rừng An Mỹ và không bao giờ quên - Một thời sinh ra trong khói lửa –



CLB Thứ Năm tiếp bạn Miền Bắc.


 Chủ tịch CLB Bình Ngọng tuyên bố: "CLB thứ năm" sẽ nổ phát pháo đầu tiên chào đón các đại biểu Thủ Đô (bao gồm cả các bạn nhảy tàu dọc đường). Chủ tịch cũng quán triệt đây là dịp tương đối đông đủ các chiến hữu K3 có dịp Nam tiến gặp anh em MN mà cơ hội như vầy ngày càng hiếm nên CLB chúng ta phải...đến đoạn này thì nhiều và dài quá, tui không nhớ hết nổi bởi bộ óc lão hóa già nua của mình. Thôi, không quan tâm những gì Chủ tịch nói, hãy xem những gì chủ tịch làm! Xin mời xem một số hình ảnh buổi gặp mặt chiều 27/7.


   
 Địa điểm: Theo truyền thống là Nhà Hàng Cây Sứ - trong khuôn viên bào tàng tryền thống QK7.

Xem hình này, bạn có cho là buổi gặp mặt thành công ??? Riêng tui có nhận xét nhỏ, có vẻ không đúng truyền thống lắm khi các bác Miền Bắc nâng ly bự còn các anh Hai nhấc ly con.

Thứ Tư, 25 tháng 7, 2012

Mời gặp mặt 2012


MỜI HỌP MẶT

       Mời các bạn K3 vá các khóa đến dự buổi họp lớp thường niên của K3 TVHQĐ NVT tại nhà hàng 168 Hoàng Văn Thụ, Q Phú Nhuận, TP HCM ,vào hồi 11g 00 ngày Chủ nhật, 29/7/2012. 
      Năm nay có các bạn ở phía Bắc vào dự. Rất mong các bạn K3 sắp xếp công việc đến dự cho đông đủ. 
                                                TM BLL K3 TVHQĐ NVT Phía Nam
                                                                   Trưởng Ban

                                                              Nguyễn Khánh Tường



Buổi họp trù bị của BLL Phía Nam (mở rộng). Lễ gặp mặt chính thức của K3 PN năm nay sẽ được tổ chức tại đây: Nhà Hàng 168 HVT - Phú Nhuận.





Thứ Hai, 23 tháng 7, 2012

Ghi chép miền Nam


Tôi đi miền Nam từ 4-14/7/2012. 11 ngày phẳng phiu, chả có chuyện gì lớn, nhưng nghĩ ngợi, so sánh có khác những lần trước...



Năm ‘86, lần đầu tiên nhìn SG từ máy bay, tôi nghĩ đến hai chữ “vĩ đại”. Kích thước “cái” gì cũng lớn, bể dầu, nhà cửa, đường xá… Bước ra đường Nguyễn Huệ là cảm giác chim chích lạc rừng. Sao có những tấm kính to đến vậy, trong suốt, hẳn phải được vệ sinh kỹ lắm. Nhưng tiếng ồn lập tức đè nén, làm mất mọi cảm giác khác. Sống thế nào được khi ầm ầm đến nửa đêm, được vài tiếng đã lại gầm rú. Và nóng ngột ngạt. Đi ngoài đường chỉ mong mau về nhà chui vào buồng tắm. Nhà cửa khác ngoài Bắc, tiện nghi khu phụ đắt, sang  hơn hẳn. Buồng khách sạn tôi ở bước vào thấy ngay cái toa lét. Quan trọng đến thế ư, cái sự bài tiết, tắm táp?
Dần dần lập trường về khu phụ thay đổi theo lối Nam. Dân Bắc làm nhà với tắm xí to đoạch. Bếp - thường làm phòng ăn luôn - sáng sủa, có tủ giả đường bệ, những cái móc giản đơn mà tiện dụng, tha hồ cho bà nội trợ tung hoành. Tủ lạnh càng to thì dường như gia đình càng ít thì giờ nấu nướng, bởi tuần đi chợ mỗi lần. Ăn uống giản tiện thì tiền bạc, thời giờ để đi chơi tăng lên, nhất là những gia đình trẻ. Và gọi đó là văn hóa tiêu dùng mới.
                                                    *
Nhà con gái ở quận Hai, cách quận Nhất “có” con sông Sài Gòn, vốn có cái cầu, nay thêm hầm Thủ Thiêm. Tháng trước cô Oanh từ HN vào, ở quận 1 gọi sang bảo hai quận gần nhau cô sẽ đi bộ sang. Biết đâu rằng vài chục cây số.  Từ sân bay về mất 280k tắc xi, vừa rối mắt ù tai vì nhà cửa đã veo veo giữa dừa nước, bần, cầu Cá trê lớn Cá trê nhỏ. Xa thật, nhưng hợp với mình. Thoáng đãng, gió chạy ù ù, tầm nhìn từ lầu 7 mở thật xa, thấy cả cần trục cảng Cát Lái.
Nhà SG đương hạ, thấy bảo nhiều anh đầu cơ không bán được, chết đứng. Chung cư Thủ Thiêm Star rao đã lâu, mới lác đác căn sáng đèn. Căn hộ con gái đầu hồi, nghĩa là đắt nhất tầng, 80 mét – 1,4 tỷ, cái giá ngoài HN chả ai tưởng tượng được. Ngoài cửa vào, có ban công, cửa sổ phòng ngủ hướng chính Đông, một cửa sổ phòng làm việc chỉ Nam, và lại ban công nhỏ nữa mé Tây. Vợ chồng nó nhường phòng ngủ có giường, nhưng bố mẹ quyết định “tiếp đất”, nửa đêm kéo chăn đắp. Sáng ra bảo “nhà con mở tất cả cửa rồi đi làm, lúc về có thể làm bối cảnh bộ phim “Khi cơn bão đi qua”. Chúng nó chọn hướng nhà thế là tuyệt vời rồi, nhưng không nghe mình làm cái bàn thờ, dù chỉ để nhắc nhớ đến ông bà chứ không phải cầu xin gì.
Cứ nghe tiếng xào xạc như có một trại chim đâu đấy. Hóa ra ngôi biệt thự đằng Đông yến về làm tổ. Lộc giời đấy. Chợ Quảng Ngãi giữa ồn ỹ khói xăng, yến đậu xuống, đem về cho nhà ấy trăm triệu mỗi năm, nhưng nhà bên thì chả héo lánh. Đêm có tiếng lanh canh như chiêng, không ngân nga, chả biết có phải chuông tịnh xá Ngọc Thanh gần đấy vẳng ra. Ngôi chùa đang xây này đắp tượng to tướng, đằng sau vuông vức chỗ ở; chả có chỗ nào cho khuôn viên, cảm giác rất bí.
Chính Đông, cái “viu” đẹp nhất của căn hộ, sẽ không bị chắn nhiều, vì các biệt thự bị hạn chế chiều cao cả. Đêm xuống máy bay nhấp nháy liên tục nhưng không nghe thấy tiếng ồn. Mưa tạnh, một anh chàng nói tiếng Nghệ đi bắt chẫu chuộc “làm chả thì nhất”. Nửa cây số ra đường Nguyễn Duy Trinh có xe bus lên Bến Thành. Và chợ Tân Lập lao xao tiếng Bắc, nguyên một giáo xứ Thái Bình vào ’54. Chỗ mình ăn trưa lại có nhà thờ Cao Đài, “sát cánh” với ngôi Quan Âm bên cạnh.
Nghe bảo quận Hai đông người Bắc, và nhiều nhà đại gia. Nhưng uống cà phê gần nhà con lại rất nhếch nhác. Chung cư chắn chuồng cọp, phơi phóng bừa bãi. Chủ quán bảo là chỗ tái định cư khi làm hầm Thủ Thiêm. “Rất khổ, tiền đền bù ít mà mua chỗ này đắt. Trả góp đấy nhưng lắm anh phải gán cả dàn máy, tivi, sau người ta thương, xóa cho. Còn chuồng cọp cấm làm, sau con nít té nên phải cho”. Kể thì trong Nam hay ngoài Bắc đều có “quy luật”, những chung cư tái định cư đều bẩn thỉu, chóng tàn phai, vì người xây ẩu, và người ở chả thương xót gì những cống rãnh, khu vực chung, bạ gì cũng tống xuống. Ngược lại, kẻ có tiền mua nhà thì sử dụng thang máy, hầm rác… cũng có ý thức hơn. Đẳng cấp thị dân gắn với túi tiền, nếu thế đáng buồn lắm.
                                          *
Đèo vợ đi Phú Mỹ Hưng cho biết mặt mũi cái khu dân cư sang trọng. Đường xá rộng rãi, cây cối được chăm sóc, chốc chốc chốt bảo vệ. Những cặp tân hôn chụp ảnh (mình thấy chú rể luôn luôn đáng thương). Bức tường quây kín một khu, chắc những biệt thự bên trong đẳng cấp còn hơn bên ngoài.
Nhiều khái niệm đang bị đám nhà báo trẻ lười biếng dùng sai. Cái nhà “công ten nơ”, “hộp diêm chồng lên nhau” họ gọi là “biệt thự”, dù chả có chỗ đất nào cho cây lên. Tệ hơn, những ngôi nhà ba gian, năm gian ở nông thôn bị gọi là “nhà cấp bốn”. Chuẩn tiếng Việt xuống cấp kinh khủng, nhất là những nhà báo ấy lại bập bõng tiếng Anh “Cái này thì mi không sua đâu”.
Không có khu dân cư nào ở Hà Nội so được! Chỉ nên nói thế về Phú Mỹ Hưng.
                                                    *
Bản đồ SG hình như đều có ba ngữ Việt Anh Hoa. Quận 5, thật ngạc nhiên là cái chợ (Bình Tây?) mình vào ít mùi chợ. Hóa ra trong ruột nó là cái sân trồng cây, hoa, monument thờ người sửa sang cách nay hơn 80 năm. Gió chạy ào ạt. Không hàng quán nào được phép dọn trong sân, điều không thể có ở chợ HN. Ăn một bát chè gì giống tào phở, rất mát. Khu Chợ Lớn nghe nói của Trần Thượng Xuyên, chủ bang Thiên Địa Hội phản Thanh phục Minh lập ra. Trần sang Việt Nam từ tk 18 (?), lập ra khu thương nghiệp Cù lao Phố ở Đồng Nai, sau chúa Nguyễn thấy thế lực lớn quá dời về Chợ Lớn cho dễ quản.
Cái năm ra Hà Tiên, đến thăm lăng Mạc Cửu, thấy ông này cũng trong Thiên Địa hội, mình hỏi đến những Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch, làm ông từ thốt lên “Sao anh biết nhiều zdậy?”. Mình chỉ hì hì, chả nhẽ phô rằng đấy là công phu luyện chưởng Lộc Đỉnh ký của Kim Dung. Dù sao người Hoa nắm hết yết hầu kinh tế những nơi có họ.
                                                    *
Không thể ngờ là Côn Đảo ngày có năm chuyến bay từ SG, trung bình quãng 350 khách ra và ngần ấy về, đa phần là “du lịch tâm linh”. Ngoài ra hai tầu biển chạy tới Vũng Tàu, cho loại ít tiền hơn. “Cô Sáu đang nuôi cả Côn Đảo”. Đêm xuống nghĩa trang Hàng Dương sáng trưng đèn cảm ứng cắm trên mộ, lấy năng lượng từ ánh mặt trời ban ngày. Chợ đêm tấp nập từ 22 giờ, đồ lễ không thiếu thứ gì. Taxi đưa đón nhộn nhịp. Mộ Cô Sáu, đa phần phụ nữ lầm rầm, có hai ông ra chiều công chức, khấn vái nghiêm trọng lắm. Cầu cho con nhiệm kỳ tới lại trúng cấp ủy, ngồi ghế cũ, bổng lộc thu được con sẽ lại quả cho cô, có khi thế chăng…
Côn Đảo vẻ ngoài dành cho du lịch. Khách sạn xịn, nhà nghỉ bình dân, quán ăn, tạp hóa, hiệu thuốc đủ cả. Nhưng thực chất là một vị trí bố phòng. Trong 7000 dân có 4000 bộ đội, ngoài ra là biên phòng, kiểm lâm, công chức. Nghĩa trang cả vạn ngôi mộ, hệ thống nhà tù nhiều thời tạo cho nó vị trí một trong 10 hòn đảo bí ẩn nhất thế giới. Nhưng lại ở xa nhau. Sợ rằng mươi năm nữa, xây cất nhiều quá, đi từ lao nọ sang banh kia đụng phải những kiến trúc mới cảm giác đảo tù sẽ vợi. Sợ thế vì Huế, lượng di tích ít hơn HN, nhưng rất tập trung, vòng vèo cả ngày không xuể, đâm sức hút du khách lại lớn hơn.
Thành phần dân cư ngoài chợ khá tứ chiếng. Bà bán rau vốn có sạp chợ Vũng Tàu, chuyển ra vì làm ăn được hơn. Bà hàng khô từ An Giang, giáp biên giới Campuchia, “chồng đánh quá trời phải chạy”. Giá cả cũng không đến nỗi chênh quá với đất liền. Dưới cái nắng khô không khốc, bánh mỳ để trong tủ kính lại vẫn mềm, mới lạ.
Trên bản đồ có đường tên ông già mình. Định ra chụp cái ảnh cho oách, nhưng chưa có biển tên đường. Hòn Cau, nơi ông nhắc nhiều, thấy bảo chả còn vết tích nhà tù gì, biên phòng và kiểm lâm xóa hết rồi. Một chuyến ca nô sang là 2,7 triệu.
Xem lại ghi chép của bố: Hòn Cau có hàng nghìn cây dừa, na, chuối, không có tàu mà chở về đảo lớn. Lợn, vịt, rượu… “trồng” lấy được. Một ông uống nước dừa vứt quả, bị bạn tù phê bình lãng phí. Ú nàng, cái con chỉ có một vỏ giống trai, có thịt ở giữa, bám vào vách đá, giờ trên menu của nhà hàng thành “ốc vú nàng”, đắt mà chả ngon lành gì. Ông già mình hết 5 năm cấm cố, về quê ai cũng thương, nhưng chả nhẽ lại kể ngoài đảo ăn uống sướng hơn nhiều. Ai tin cho!
Mình mang bệnh cúm dở dang từ HN vào. Ra Côn Đảo vừa khỏi thì mẩn ngứa, đêm gãi điên cuồng. Vì bị con muỗi “mù mắt” đốt, bôi thuốc ghẻ DEP có đỡ. Nhưng vì thế mà mất cái thú hỏi han của thằng làm báo, mất cả tắm.
                                          *
SG kỳ này trưng ra cho mình cái khí hậu hiền hòa, khác hẳn cảm giác trước đây, có lẽ vì không ở trong phố mà dạt ra quận Hai. Nhiệt độ vẫn cao nhưng gió nhiều, độ ẩm thấp nên không thấy dâm dấp ở lưng. Vợ ra chợ Tân Lập về suýt soa hàng nhiều và rẻ, cân cua bể có 220k mà không bị “trói” dã man quá. Giao thông tốt hơn hẳn. Đi xa không thành vấn đề, vì đường tốt, và người lưu thông trật tự, nó cho thấy chất lượng thị dân cao hơn HN.
Mình vốn ghét những anh Bắc vào ít năm cứ mở miệng là kể xấu miền Bắc. Nhưng lần này, khốn nỗi, cái ấn tượng người Nam thiệt thà, chân thành hơn lại lộ ra mồn một. Hỏi đường chỉ vẽ tận tình, ra chợ ít nói thách. Dịch vụ đắt, nhưng đâu ra đấy. Người Nam dường như an phận với công việc lắm, ra giá rồi thì làm cho khách vui lòng; chả bù với anh Bắc thỏa thuận xong hay thêm câu “Thôi thì tôi làm giúp”, để rồi phát sinh bao khoản. Thanh niên hết nghĩa vụ quân sự về sửa xe máy, đánh cá, đến bữa nhậu vui như tết, trong khi lính Bắc rất thích được học sĩ quan tiếp, phải “ba linh thôn” là thấy đời hỏng bét. Cái ý thích được buộc chặt vào hệ thống quan liêu, làm “người nhà nước”, cùng thói “nói zdậy mà không phải zdậy” ám vào người Bắc khá rõ.
Thử tìm nguyên nhân, thì thấy ngay điều kiện sống nó ảnh hưởng nhiều, ngoài này khắc nghiệt cả khí hậu lẫn kiếm ăn, trỏng dễ hơn, nên con người phóng khoáng. Về lịch sử, nhiều đời chúa Nguyễn cho khai khẩn, tồn tại ruộng tư, đến Minh Mạng mới cải cách, lập ruộng công để quản lý. Gần trăm năm thuộc địa Pháp, Mỹ cho ra những quan hệ thị dân, nghĩa là con người khá độc lập, nghĩ gì nói gần gần như thế. Ngoài Bắc đặc sệt quan hệ làng xóm, một con người sinh ra đến khi chết trước hết là con ông ấy bà ấy, thuộc họ ấy làng tổng ấy, học thầy ấy… Cứ thế  tầng tầng lớp lớp tôn ty nó đè, làm một cá thể sao nổi. Và lại gần Tầu, nói năng nghĩ ngợi phải cẩn trọng, đừng huỵch toẹt ra mới được. Nhưng dường như ta học Tầu cách giấu ý nghĩ đi, chứ không có tính kỷ luật, đoàn kết như họ, thành ra vẫn chỉ là anh khôn mống, ham cái lợi vặt vãnh.
Chao ôi là nỗi. Đến nỗi phải dở dang với ý nghĩ nếu còn trẻ có khi mình vào trỏng, kiếm cái nhà vườn đi ra đi vào…
                                                             
T.T.C